Ai Về Sông Tương_Văn Giảng - Thông Đạt
- Tango Dĩ Vãng_Anh Bằng
"Ai về sông Tương"
Văn Giảng (1924 - ) là một nhạc sĩ Việt Nam có những sáng tác thuộc nhiều thể loại. Ông là tác giả của nhiều bản hùng ca. Khi viết tình ca, ký tên Thông Đạt, ông đã viết bản "Ai về sông Tương" nổi tiếng. Ngoài ra Văn Giảng còn những bút danh khác như Nguyên Thông
"Ai về sông Tương" được Thông Đạt viết vào năm 1949. Về ca khúc này có một giai thoại: Những năm cuối thập niên 1940
đó, Văn Giảng có chơi thân cùng ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản
Tinh Hoa Huế, một số hành khúc của Văn Giảng cũng được nhà xuất bản Tinh
Hoa ấn hành. Một lần Tăng Duyệt nói đùa ngụ ý rằng nhạc sĩ Văn Giảng
chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải
sở trường của Văn Giảng.
Văn Giảng nghe như vậy và không trả lời. Sau đó ông viết bản "Ai về
sông Tương" và ký tên Thông Đạt. "Ai về sông Tương" được tác giả Thông
Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn
và nhanh chóng nổi tiếng. Sau nhiều lần được nghe bản nhạc đó trên đài,
Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết
Thông Đạt, tác giả bài "Ai về sông Tương" là ai không. Văn Duyệt muốn
tìm mua lại bản quyền để xuất bản nhạc phẩm đó nhưng Văn Giảng trả lời
không biết.
Một lần hai người bạn của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng và nhà văn Lữ Hồ
tới chơi và tình cờ nhìn thấy bản thảo của "Ai về sông Tương". Nhờ đó
Tăng Duyệt mới biết Văn Giảng chính là Thông Đạt, tác giả của bàn tình
ca nổi tiếng đó.
Với bút danh Thông Đạt, Văn Giảng còn sáng tác một số nhạc phẩm khác
như "Đôi mắt huyền", "Hoa cài mái tóc", "Tình em biển rộng sông dài",
"Xin đừng chờ em nữa"
*****
- Ai có về bên bến sông Tương,
- nhắn người duyên dáng tôi thương, bao ngày ôm mối tơ vương.
Tháng với ngày mờ, nhuốm đau thương,
tâm hồn mơ bóng em luôn, mong vài lời em ngập hương.
Thu nay về vương áng thê lương,
vắng người duyên dáng tôi thương, mối tình tôi vẫn cô đơn.
Xa muôn trùng lưu luyến nhớ em,
mơ hoài hình bóng không quên, hương tình mộng say dịu êm
Bao ngày qua, Thu lại về mang sầu tới
Nàng say tình mới hồn tôi tơi bời,
nhìn hoa cười đón mừng vui duyên nàng:
Tình thơ ngây từ đây nát tan
Hoa ơi ! Thôi ngưng cười đùa lả lơi.
Cùng tôi buồn đắm đừng vui chi tình,
đầy bao ngày thắm: dày xéo tâm hồn này lệ sầu hoen ý thu.
Ai có về bên bến sông Tương,
nhắn người duyên dáng tôi thương, sao đành nỡ dứt tơ vương.
Ôi duyên hờ từ nay bơ vơ.
Dây tình tôi nắn cung tơ, rút lòng sầu trách người mơ...
Thương Nhớ Sông Tương
Có
một con sông Tương thật, là nhánh của sông Trường Giang, chiều dài hơn
850 cây số chảy qua địa phận tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc). Nhưng có một con
sông Tương khác vô hình, khó xác định nơi chốn cụ thể, đã trở thành
nguồn cảm hứng vô tận cho thi nhân nhiều thời đại.Dòng sông để những
người đang yêu giãi lòng mình, gửi niềm thương, nỗi nhớ… Không biết có
bao nhiêu con sông Tương như thế trên cõi trần mờ mờ nhân ảnh ?
Trong văn chương, xa xưa nhất có lẽ là sông Tương này:
君 在 湘 江 頭 quân tại Tương giang đầu
妾 在 湘 江 尾 thiếp tại Tương giang vỹ
相 思 不 相 見 tương tư bất tương kiến
同 飮 湘 江 水 đồng ẩm Tương giang thủy
(Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà chẳng thấy
Cùng uống nước sông Tương)
Trong văn chương, xa xưa nhất có lẽ là sông Tương này:
君 在 湘 江 頭 quân tại Tương giang đầu
妾 在 湘 江 尾 thiếp tại Tương giang vỹ
相 思 不 相 見 tương tư bất tương kiến
同 飮 湘 江 水 đồng ẩm Tương giang thủy
(Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà chẳng thấy
Cùng uống nước sông Tương)
Đây chính là con sông gợi thi tứ để Nguyễn Du viết nên câu Kiều nhuần nhị:
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Cách nay non thế kỷ, tuy là bối cảnh sông Đà nhưng những câu thơ này của Quang Dũng, mình nghĩ cũng gợi một sông Tương. Chỉ có điều nỗi nhớ nhung không trải theo chiều dọc mà lại vắt ngang bên này bên ấy:
Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm mai
Còn
đây là con sông Tương không biết ở đâu ? Đó là ca khúc “ Ai về sông
Tương” viết năm 1941, của Thông Đạt tức Văn Giá. Tài tử Ngọc Bảo đã hát,
rồi Eris Phương, Đàm Vĩnh Hưng và gã khờ Đức Long (Hà nội) cũng hát.
Người nào hát cũng hay cả. Nhưng mà ca từ bi lụy quá ! Xin trích bốn câu
mở đầu và sáu câu kết:
Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mờ, nhuốm đau thương…
…
Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Sao đành nỡ dứt tơ vương
Ôi duyên hờ từ nay bơ vơ
Dây tình tôi nắn cung tơ,
Rút lòng sầu trách người mơ.
Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mờ, nhuốm đau thương…
…
Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Sao đành nỡ dứt tơ vương
Ôi duyên hờ từ nay bơ vơ
Dây tình tôi nắn cung tơ,
Rút lòng sầu trách người mơ.
Chỉ
thấy than trách thôi, có thấy hình bóng con sông rộng hẹp, dài ngắn ra
sao đâu! Hóa ra tên sông chỉ là cái cớ để người tình si trút bầu tâm sự
nặng trĩu của mình.
Trịnh Huynh - Sưu tầm
**
DỌN NHÀ
Trịnh Huynh - Sưu tầm
**
DỌN NHÀ
Mùa Thu Trong Thi Ca VN.
Thứ năm, 9 tháng 8 năm 2012
Cảnh hoàng hôn ở góc đường San Martin và Monterey
DzungBanMe.
DzungBanMe.
**
Mùa thu qua thi-ca Việt - Nam
Dương Viết Điền
Ai
đã từng đọc bài thơ nỗi tiếng " Chansons D'automne " của thi- sĩ lừng
danh
Pháp-quốc Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi-hồi và xúc-động .
Không xúc-động sao đựơc khi nhà thơ đa-tình này đã rung cảm hồn mình
thành những dòng thơ bất-hủ sau đây để nức-nở về tình thu bên bờ
sông Seine tuyệt đẹp năm nào:
" Les sanglots longs
Des violons
De l'automne
Blessent mon coeur
D'une langueur monotone
Tout suffocant
Et blême, quand
Sonne l'heures
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure
Et je m'en vais
Au vent mauvais
Qui m'emporte
Decà delà
Pareil à la
Feuille morte "
" Tiếng đàn ai đó lê-thê
Vĩ- cầm réo-rắt ê-chề lòng đau
Bơ-vơ chuông đổ đồng-hồ
Lòng như héo-hắt thu tàn năm xưa
Bao kỷ-niệm, theo gió đưa
Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót-xa
Bao năm lữ thứ xa nhà
Giang-hồ phiêu-bạt lá vàng tả-tơi.. "
(Lãng-Du )
Thật vậy, mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng. Mùa thu là mùa của
những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức bầu không khí mát mẻ
trong lành,rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để rồi cùng nhau nhìn lá vàng rơi,
rơi mãi tận cuối chân trời.
Pháp-quốc Paul Verlaine đều cảm thấy lòng mình bồi-hồi và xúc-động .
Không xúc-động sao đựơc khi nhà thơ đa-tình này đã rung cảm hồn mình
thành những dòng thơ bất-hủ sau đây để nức-nở về tình thu bên bờ
sông Seine tuyệt đẹp năm nào:
" Les sanglots longs
Des violons
De l'automne
Blessent mon coeur
D'une langueur monotone
Tout suffocant
Et blême, quand
Sonne l'heures
Je me souviens
Des jours anciens
Et je pleure
Et je m'en vais
Au vent mauvais
Qui m'emporte
Decà delà
Pareil à la
Feuille morte "
" Tiếng đàn ai đó lê-thê
Vĩ- cầm réo-rắt ê-chề lòng đau
Bơ-vơ chuông đổ đồng-hồ
Lòng như héo-hắt thu tàn năm xưa
Bao kỷ-niệm, theo gió đưa
Cuốn theo lệ đổ chưa vừa xót-xa
Bao năm lữ thứ xa nhà
Giang-hồ phiêu-bạt lá vàng tả-tơi.. "
(Lãng-Du )
Thật vậy, mùa thu là mùa của tình yêu, mùa của lá vàng rơi rụng. Mùa thu là mùa của
những cặp tình nhân dìu nhau đi dưới nắng thu để thưởng thức bầu không khí mát mẻ
trong lành,rồi trao cho nhau những nụ hôn nồng cháy để rồi cùng nhau nhìn lá vàng rơi,
rơi mãi tận cuối chân trời.
Mùa thu là mùa các thi-nhân đi tìm những vần thơ để sáng-tác thành những
tuyệt-phẩm bất-hủ nghìn năm Ai đã từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng
chiều thu khi lá vàng bay bay khắp trời rồi lác-đác rơi qua mái đầu và rớt
xuống đất, mới cảm thấy được cái đẹp tuyệt vời của mùa thu,mới rung cảm
theo nhịp của lá vàng đang rơi,rung cảm theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi
đến tận chân trời xa thăm-thẳm. Nói đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng baybay,
mùa của lá vàng rơi rơi, mùa của lá vàng khô rụng khắp mọi nẽo đường.
" Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về ". Ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam
nói về lá vàng rơi mỗi độ thu về qua những dòng thơ trữ tình sau đây.
Hình ảnh nỗi bật nhất về lá rụng giữa mùa thu là hình ảnh trong hai câu thơ sau đây
của thi-sĩ Tản- Ðà :
" Trận gió thu-phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang "
Nhưng hình ảnh trữ tình và lãng-mạng nhất là hình ảnh con nai vàng ngơ-ngác giưã rừng thu
qua bài " Tiếng Thu " của Lưu Trọng Lư với những câu thơ năm chữ nghe thật êm-đềm n
hư khúc nhạc tình thu trong rừng vắng :
" Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào-xạc
Con nai vàng ngơ-ngác
Ðạp trên lá vàng khô "
tuyệt-phẩm bất-hủ nghìn năm Ai đã từng đi qua phố vắng dưới ánh nắng
chiều thu khi lá vàng bay bay khắp trời rồi lác-đác rơi qua mái đầu và rớt
xuống đất, mới cảm thấy được cái đẹp tuyệt vời của mùa thu,mới rung cảm
theo nhịp của lá vàng đang rơi,rung cảm theo những tia nắng thu dịu hiền vươn mãi
đến tận chân trời xa thăm-thẳm. Nói đến mùa thu là nói đến mùa của lá vàng baybay,
mùa của lá vàng rơi rơi, mùa của lá vàng khô rụng khắp mọi nẽo đường.
" Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về ". Ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam
nói về lá vàng rơi mỗi độ thu về qua những dòng thơ trữ tình sau đây.
Hình ảnh nỗi bật nhất về lá rụng giữa mùa thu là hình ảnh trong hai câu thơ sau đây
của thi-sĩ Tản- Ðà :
" Trận gió thu-phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang "
Nhưng hình ảnh trữ tình và lãng-mạng nhất là hình ảnh con nai vàng ngơ-ngác giưã rừng thu
qua bài " Tiếng Thu " của Lưu Trọng Lư với những câu thơ năm chữ nghe thật êm-đềm n
hư khúc nhạc tình thu trong rừng vắng :
" Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào-xạc
Con nai vàng ngơ-ngác
Ðạp trên lá vàng khô "
Không
phải chỉ có Tản Ðà hay Lưu
Trọng Lư mơí nói đến lá vàng khi mùa thu tới;
hầu hết các thi- nhân Việt-nam đều ca ngợi cái đẹp của mùa thu bằng cách diễn tả
hình ảnh của lá vàng rơi giữa trời thu. Sau đây là những dòng thơ diễn tả về lá vàng
mùa thu của một số thi- nhân Việt-nam :
" Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng "
(Huy-Cận)
" Rặng liễu đìu-hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Ðây mùa thu tới mùa thu tới
Với aó mơ phai dệt lá vàng "
(Xuân-Diệu )
" Ao thu lạnh-lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo-teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo "
(Nguyễn Khuyến)
" Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng "
(Chế lan Viên)
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man-mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái Can)
" Gió vàng hiu-hắt cảnh tiêu-sơ
Lẻ-tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa "
(Ngô chi Lan)
" Ðêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương "
(Nguyên-Du)
hầu hết các thi- nhân Việt-nam đều ca ngợi cái đẹp của mùa thu bằng cách diễn tả
hình ảnh của lá vàng rơi giữa trời thu. Sau đây là những dòng thơ diễn tả về lá vàng
mùa thu của một số thi- nhân Việt-nam :
" Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng "
(Huy-Cận)
" Rặng liễu đìu-hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Ðây mùa thu tới mùa thu tới
Với aó mơ phai dệt lá vàng "
(Xuân-Diệu )
" Ao thu lạnh-lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo-teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo "
(Nguyễn Khuyến)
" Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng "
(Chế lan Viên)
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man-mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái Can)
" Gió vàng hiu-hắt cảnh tiêu-sơ
Lẻ-tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa "
(Ngô chi Lan)
" Ðêm thu khắc lậu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương "
(Nguyên-Du)
Ngoài
lá vàng rơi là biểu-tượng của mùa thu, ta còn phải đề cập đến ánh trăng
thu
huyền-ảo. Nói đến mùa thu mà không đề-cập đến ánh trăng thu mờ-ảo sau áng mây
trời giữa đêm khuya thanh-vắng là một sự thiếu sót lớn lao đối với mùa thu .
Không phải đêm thu nào ánh trăng cũng vằng-vặc giữa trời trong khi lá vàng rơi
nhè nhẹ giữa đêm khuya cô-tịch mà trái lại, có những đêm thu trăng buồn ảo-nảo
gió heo may thổi về làm cho lòng người cảm thấy u-buồn man-mác trước cái lạnh
không làm tê-buốt con tim như mùa đông, nhưng lắm lúc làm cho hồn ta
bâng-khuâng giá rét, làm cho hồn ta nhung- nhớ lạnh-lùng.
Nếu thi-sĩ Thượng Quan- Nghi đời Ðường bên Trung-Quốc đã diễn-tả
cái đẹp của ánh trăng thu qua hai câu thơ:
" Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo đã phong thu "
" Sườn non trăng sáng chim bay
Ðồng thu gió lộng ,ve say nhạc sầu "
(Chi-Ðiền dịch)
Thì tại Việt-Nam, rất nhiều nhà thơ đã tốn không biết bao nhiêu mực và giấy
để diễn-tả chị Hằng giữa đêm thu huyền-diệu. Thật vậy nếu bài " Tiếng thu "
của Lưu trọng Lư không đề cập đến ánh trăng mờ thì tòan bài thơ mất đi rất
nhiều ý-nghĩa về mùa thu :
" Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn-thức "
Riêng nhà thơ Xuân-Diệu đã nhân-cách hóa ánh trăng thu khiến những
dòng thơ trở thành bất tử:
" Thỉnh-thỏang nàng trăng tự ngẩn-ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Ðã nghe rét mướt luồn trong gió
Ðã vắng người sang những chuyến đò "
Tuy-nhiên nói đến trăng nhất là ánh trăng thu mà không nói đến thi-sĩ
Hàn Mặc Tử là một sự thiếu sót vô cùng trọng đại.
Ta hãy nghe Hàn Măïc Tử nói về trăng thu qua những câu thơ bảy chữ
với lối nhân-cách hóa làm cho ta có cảm tưởng như người đẹp
Hằng -Nga đang rón-rén dời gót ngọc vào nhà ai giữa đêm thu trăng sáng :
" Bóng nguyệt leo song sờ-sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn "
hay là :
" Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe "
Ngoài Lưu trọng Lư, Hàn mặc Tử, Xuân-Diệu ra , ta cũng thấy rất nhiều
nhà thơ nói về ánh trăng thu. Sau đây là một số bài thơ của một vài
thi-nhân đãu ca-tụng ánh trăng thu qua những dòng thơ đủ các thể loại :
" Lòng anh giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh-thành
Ða-đoan vó ngựa chung-tình bánh xe . "
(Nguyễn-Bính)
" Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào "
( Nguyễn -Khuyến)
" Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi !
Trần thế em nay chán nữa rồi "
( Tản-Ðà)
" Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô
Lạnh-lùng thay, bấy chiều thu,
Gió may hiu-hắt trên đầu tường vôi "
Ðặng trần Côn (Ðoàn thị Ðiểm địch)
" Vi lô san-sát heo may
Một trời thu để riêng ai một người
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần -hôn !"
( Nguyễn-Du )
"Ðêm thu gió lọt sông đào
Nửa vành trăng khuyết ,ba sao giữa trời "
( Nguyễn- Du)
" Hoa xuân nọ ,còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia,chưa hé hàn-quang "
( Ôn như Hầu )
Nếu mùa thu có lá vàng rơi rụng, có trăng thu huyền ảo thì cũng có nắng thu
nhẹ lướt trên đồi. Nắng mùa thu không gay-gắt rực lửa như mùa hạ trái lại
rất mát diụ trong lành, nhất là những lúc trời xanh mây trắng nắng hồng.
Ði dươiù nắng thu người ta thấy tâm-hồn rất thoải mái lâng-lâng ,nhất là
những lúc trờiø chiều nhạt nắng có lá vàng bay bay rồi rụng khắp phố -phường.
Nhiều cặp tình nhân thích đi dưới nắng thu để thưởng thức cái vẻ đẹp của mùa thu,
nhặt những lá vàng rơi rồi nhìn những hàng cây khẳng-khiu chỉ còn những cành
trụi lá dọc hai bên đại-lộ lúc chiều tà.
Ai cũng biết rằng các thi- nhân khi nói về mùa thu thường không quên đề-cập
đến nắng thu. Nhà thơ Chế lan Viên đã làm cho ta ngạc-nhiên khi viết mấy
câu thơ liên-quan đến nắng thu như sau:
"Chao ôi! thu đã tới rồi sao ?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao ."
Nhưng ngạc-nhiên hơn nữa là hai câu thơ đầy nhạc tính của nhà thơ Bích-Khê
sau đây làm cho ta cảm thấy thích thú khi đọc lên vì nghe như một giai-điệu tuyệt vời :
" Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh-mông ."
Dĩ-nhiên, mỗi nhà thơ diễn-tả vẻ nắng thu một cách khác nhau, nhưng hầu hết
đều ca-ngợi nắng thu như là hình ảnh tuyệt đẹp giữa gió chiều.
Nhà thơ Xuân-Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất-ngôn đầy
lưu luyến trữ-tình :
" Nõn-nà sương ngọc quanh thềm dâu .
Nắng nhỏ bâng-khuâng chiều lỡ thi. "
Nhưng nếu ai đã đọc mấy câu thơ sau đây của nhà thơ Trúc-Ly đều cảm thấy
hồn mình xao-xuyến bâng -khuâng :
"Tôi đứng bên nầy bờ dĩ-vãng
Thương về con nước ngại-ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa thu tha-thiết nắng hoe thềm. "
Ngòai ra ta còn thấy rất nhiều nhà thơ khác cũng đã nói về nắng thu
với những dòng thơ thật đẹp và thật buồn :
"Chiều nay nắng nhạt luyến chân đồi
Hơi lạnh tàn thu giục lá rơi
Sương xuống chiều đi lòng vắng vẻ
Thê-lương thêm bận khúc ly-hòai ."
hay là :
" Hát bài hát ngô-nghê và êm ái
Bên sườn non mục-tử cưỡi trâu về
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái . "
Nam-Trân Nguyễn học Sỹ
Nếu những hình ảnh đẹp của mùa thu là lá vàng rơi,là ánh trăng thu
giữa đêm khuya thanh-vắng, và nắng chiều thu trong buổi hòang-hôn,
thì hình ảnh buồn nhất của mùa thu là mưa thu. Chính những giọt mưa thu
đã làm cho lòng người lạnh-lẽo,u-buồn, làm cho lòng người hoang vắng
sầu thương, bơ-vơ giữa thế-giới mưa rơi buồn-bã.
Trước cảnh mưa thu ảm-đạm ở ngòai bệnh-viện, nhạc-sĩ tài ba Ðặng thế Phong
đã xúc-động rồi sáng tác ngay bản nhạc " Giọt mưa thu. " trước khi vĩnh-biệt
trần-gian để lại cho đời những giọt lệ thu sầu thương nức-nở, những giọt lệ tình
ai-oán lâm-ly : " Ngòai hiên giọt mưa thu thánh-thót rơi. Trời lắng u-buồn
mây hắt-hiu ngừng trôi.Nghe gió thỏang mơ-hồ trong mưa thu ai khóc ai than hờ "
Bởi vậy nói đến mưa thu là nói đến một trong những cảnh vật buồn-bã nhất
của trần thế. Ðọc mấy câu thơ sau đây của Bà Huyện Thanh Quan,
ta thấy cảnh mưa thu thật là tiêu-điều buồn-bã:
" Thánh-thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu-sơ
Xanh um cổ-thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng -giang phẳng-lặng tờ. "
Hay hai câu thơ sau đây của nhà thơ Xuân-Diệu cũng cho ta thấy
cảnh lặng lẽ u-buồn :
" Gió thầm, mây lặng , dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà. "
Tuy-nhiên nếu trăng thu,nắng thu, mưa thu ,là những đề tài bất-hủ cho các văn
thi-sĩ,nhạc-sĩ lấy đó để sáng-tác thì sương thu là một đề tài không kém quan-trọng
để các thi-nhân dệt thành thơ. Vào những lúc trời sáng tinh-sương, ai đã từng
ra sau vườn,đều trông thấy nhưnõg giọt sương đọng trên cành cây,ngọn cỏ giống như
những hạt kim-cương lóng lánh đẹp tuyệt vời. Cho đến ngày hôm nay,rất nhiều
người Việt-nam đã thuộc lòng đọan văn của nhà văn Thanh-Tịnh tả về cảnh sương thu :
" Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu-yếm
nắm tay tôi,dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp." Một nhà thơ nỗi tiếng
như sóng cồn một thời vang bóng đã ca-ngợi sương thu qua bài thơ " Sương rơi.
" Ðó là thi-sĩ Nguyễn-Vỹ với bài thơ hai chữ đã để lại cho đời một tác-phẩm
bất-hủ về sương thu.:
" Sương rơi Rồi hạt Rơi sương
Nặng trĩu Sương trong Cành dương
Trên cành Tan-tác Liễu ngã
Dương-liễu Trong lòng Gió mưa
Nhưng hơi Tả-tơi Tơi-tả
Từng giọt
Gió bấc Em ơi ! Thánh-thót
Lạnh-lùng Từng giọt Từng giọt
Hiu-hắt Thánh-thót Tơi-bời
Thấm vào Từng giọt Mưa rơi,
Em ơi Ðiêu-tàn Gió rơi;
Trong lòng Trên nấm Lá rơi,
Hạt sương Mồ hoang !.. Em ơi ! .. "
Thành một
Vết thương !.. Nguyễn-Vỹ.
Như đã được trình bày ở trên,mùa thu là mùa có lá vàng rơi lác-đác,có trăng thu
mờ ảo giữa đêm buồn,có những giọt mưa rơi thánh-thót thật lâm-ly. Ðã thế,
nhiều lúc ánh nắng chiều thu làm cho người lữ-hành thêm cô-độc bâng-khuâng,
luôn luôn cảm thấy như xa vắng lạc-lòai, như biệt-ly hiu-quạnh.
Vì thế mà nhiều người đã cho rằng, mùa thu là mùa của biệt-ly,của xa cách nên
tình thu thường nức-nở nghẹn-ngào. Mùa thu là mùa nhớ nhung từ đó và
cũng là nhung-nhớ từ đây. Thế nên nói đến mùa thu là nói đến biệt-ly
nhung-nhớ,là nói đến ngăn-cách xa nhau,là nói đến chia-ly buồn-bã và lắm lúc
nói đến vĩnh-biệt ngàn đời để rồi " nghìn-trùng xa cách người đã đi rồi,
còn gì đâu nữa mà khóc với cười ."
Sau đây, ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam nói về sự biệt-ly,sự nhung-nhớ
cũng như những nỗi u-buồn giữa mùa thu :
" Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u-uất, hận chia-ly
Ít nhiều thiếu-nữ buồn không nói
Tựa cưả nhìn xa nghĩ-ngợi gì "
(Xuân-Diệu )
Hay những dòng thơ lục-bát đầy vẻ âm-u, tiêu-điều của Huy-Cận;
" Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân-gian e cũng tiêu-điều dưới kia . "
Hoặc những câu thơ đầy nhung-nhớ quằn-quại giữa mùa thu:
" Chao ôi! mong nhớ ! ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn."
(Chế lan Viên)
Hay hình ảnh xa vắng biệt-ly của người chinh-phu trong lòng người cô-phụ :
"Em không nghe rạo-rực
Hình ảnh kẻ chinh-phu
Trong lòng người cô-phụ. "
(Lưu trọng Lư)
Hoặc là những câu thơ đầy nỗi nhớ-thương của thi-nhân :
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng ,
Cõi lòng man- mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái-Can)
Nhưng sự biệt-ly đớn đau nhất hay nỗi nhớ-nhung quằn-quại triền-miên
cũng như sự khổ đau cay đắng suốt đời mà ta có thể thấy được là
những dòng thơ nức-nở lệ nhòa
của nữ thi- sĩ T.T.KH, một nhà thơ đã sáng tác nên những bài thơ bất-hủ
ngàn năm và đã trở thành huyền thọai trong thi-ca Việt-nam. Ta hãy nghe
nhà thơ T.T.KH nức-nở những điệp-khúc tình thu sau đây :
" Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có còn đâu !."
hay là :
"Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái-ân lạt-lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người ."
Tóm lại qua thi-ca Việt-nam, ta thấy hầu hết các thi- nhân nước Việt đều
nói đến mùa thu, ca ngợi mùa thu vì mùa thu có những đêm trăng mờ ảo,
có những lá vàng rơi tuyệt đẹp, có những giọt mưa thu thánh thót rơi thật
lâm-ly, bi-thảm vv.. Và cũng vì mùa thu là mùa của ngăn-cách ,của ly-biệt,
là mùa của nức-nở nghẹn-ngào nên các thi-nhân Việt-nam không ai mà không
xúc-động khi thấy mùa thu đến. Vì vậy ,qua thi-ca Việt-nam,ta thấy
nhiều nhà thơ đã để lại cho đời những bài thơ trữ-tình bất-hủ về mùa thu.
Dương Viết Điền
huyền-ảo. Nói đến mùa thu mà không đề-cập đến ánh trăng thu mờ-ảo sau áng mây
trời giữa đêm khuya thanh-vắng là một sự thiếu sót lớn lao đối với mùa thu .
Không phải đêm thu nào ánh trăng cũng vằng-vặc giữa trời trong khi lá vàng rơi
nhè nhẹ giữa đêm khuya cô-tịch mà trái lại, có những đêm thu trăng buồn ảo-nảo
gió heo may thổi về làm cho lòng người cảm thấy u-buồn man-mác trước cái lạnh
không làm tê-buốt con tim như mùa đông, nhưng lắm lúc làm cho hồn ta
bâng-khuâng giá rét, làm cho hồn ta nhung- nhớ lạnh-lùng.
Nếu thi-sĩ Thượng Quan- Nghi đời Ðường bên Trung-Quốc đã diễn-tả
cái đẹp của ánh trăng thu qua hai câu thơ:
" Thước phi sơn nguyệt thự
Thuyền táo đã phong thu "
" Sườn non trăng sáng chim bay
Ðồng thu gió lộng ,ve say nhạc sầu "
(Chi-Ðiền dịch)
Thì tại Việt-Nam, rất nhiều nhà thơ đã tốn không biết bao nhiêu mực và giấy
để diễn-tả chị Hằng giữa đêm thu huyền-diệu. Thật vậy nếu bài " Tiếng thu "
của Lưu trọng Lư không đề cập đến ánh trăng mờ thì tòan bài thơ mất đi rất
nhiều ý-nghĩa về mùa thu :
" Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn-thức "
Riêng nhà thơ Xuân-Diệu đã nhân-cách hóa ánh trăng thu khiến những
dòng thơ trở thành bất tử:
" Thỉnh-thỏang nàng trăng tự ngẩn-ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Ðã nghe rét mướt luồn trong gió
Ðã vắng người sang những chuyến đò "
Tuy-nhiên nói đến trăng nhất là ánh trăng thu mà không nói đến thi-sĩ
Hàn Mặc Tử là một sự thiếu sót vô cùng trọng đại.
Ta hãy nghe Hàn Măïc Tử nói về trăng thu qua những câu thơ bảy chữ
với lối nhân-cách hóa làm cho ta có cảm tưởng như người đẹp
Hằng -Nga đang rón-rén dời gót ngọc vào nhà ai giữa đêm thu trăng sáng :
" Bóng nguyệt leo song sờ-sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn "
hay là :
" Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe "
Ngoài Lưu trọng Lư, Hàn mặc Tử, Xuân-Diệu ra , ta cũng thấy rất nhiều
nhà thơ nói về ánh trăng thu. Sau đây là một số bài thơ của một vài
thi-nhân đãu ca-tụng ánh trăng thu qua những dòng thơ đủ các thể loại :
" Lòng anh giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh
Lòng em như bụi kinh-thành
Ða-đoan vó ngựa chung-tình bánh xe . "
(Nguyễn-Bính)
" Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào "
( Nguyễn -Khuyến)
" Ðêm thu buồn lắm chị Hằng ơi !
Trần thế em nay chán nữa rồi "
( Tản-Ðà)
" Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô
Lạnh-lùng thay, bấy chiều thu,
Gió may hiu-hắt trên đầu tường vôi "
Ðặng trần Côn (Ðoàn thị Ðiểm địch)
" Vi lô san-sát heo may
Một trời thu để riêng ai một người
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc chen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần -hôn !"
( Nguyễn-Du )
"Ðêm thu gió lọt sông đào
Nửa vành trăng khuyết ,ba sao giữa trời "
( Nguyễn- Du)
" Hoa xuân nọ ,còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia,chưa hé hàn-quang "
( Ôn như Hầu )
Nếu mùa thu có lá vàng rơi rụng, có trăng thu huyền ảo thì cũng có nắng thu
nhẹ lướt trên đồi. Nắng mùa thu không gay-gắt rực lửa như mùa hạ trái lại
rất mát diụ trong lành, nhất là những lúc trời xanh mây trắng nắng hồng.
Ði dươiù nắng thu người ta thấy tâm-hồn rất thoải mái lâng-lâng ,nhất là
những lúc trờiø chiều nhạt nắng có lá vàng bay bay rồi rụng khắp phố -phường.
Nhiều cặp tình nhân thích đi dưới nắng thu để thưởng thức cái vẻ đẹp của mùa thu,
nhặt những lá vàng rơi rồi nhìn những hàng cây khẳng-khiu chỉ còn những cành
trụi lá dọc hai bên đại-lộ lúc chiều tà.
Ai cũng biết rằng các thi- nhân khi nói về mùa thu thường không quên đề-cập
đến nắng thu. Nhà thơ Chế lan Viên đã làm cho ta ngạc-nhiên khi viết mấy
câu thơ liên-quan đến nắng thu như sau:
"Chao ôi! thu đã tới rồi sao ?
Thu trước vừa qua mới độ nào
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao ."
Nhưng ngạc-nhiên hơn nữa là hai câu thơ đầy nhạc tính của nhà thơ Bích-Khê
sau đây làm cho ta cảm thấy thích thú khi đọc lên vì nghe như một giai-điệu tuyệt vời :
" Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh-mông ."
Dĩ-nhiên, mỗi nhà thơ diễn-tả vẻ nắng thu một cách khác nhau, nhưng hầu hết
đều ca-ngợi nắng thu như là hình ảnh tuyệt đẹp giữa gió chiều.
Nhà thơ Xuân-Diệu cũng nói về nắng thu với hai câu thơ thất-ngôn đầy
lưu luyến trữ-tình :
" Nõn-nà sương ngọc quanh thềm dâu .
Nắng nhỏ bâng-khuâng chiều lỡ thi. "
Nhưng nếu ai đã đọc mấy câu thơ sau đây của nhà thơ Trúc-Ly đều cảm thấy
hồn mình xao-xuyến bâng -khuâng :
"Tôi đứng bên nầy bờ dĩ-vãng
Thương về con nước ngại-ngùng xuôi
Những người con gái bên kia ấy
Ai biết chiều nay có nhớ tôi
Tôi muốn hôn bằng môi của em
Mùa thu tha-thiết nắng hoe thềm. "
Ngòai ra ta còn thấy rất nhiều nhà thơ khác cũng đã nói về nắng thu
với những dòng thơ thật đẹp và thật buồn :
"Chiều nay nắng nhạt luyến chân đồi
Hơi lạnh tàn thu giục lá rơi
Sương xuống chiều đi lòng vắng vẻ
Thê-lương thêm bận khúc ly-hòai ."
hay là :
" Hát bài hát ngô-nghê và êm ái
Bên sườn non mục-tử cưỡi trâu về
Nắng chiều rây vàng bột xuống dân quê
Lúa chín đỏ theo gió nồm sắp mái . "
Nam-Trân Nguyễn học Sỹ
Nếu những hình ảnh đẹp của mùa thu là lá vàng rơi,là ánh trăng thu
giữa đêm khuya thanh-vắng, và nắng chiều thu trong buổi hòang-hôn,
thì hình ảnh buồn nhất của mùa thu là mưa thu. Chính những giọt mưa thu
đã làm cho lòng người lạnh-lẽo,u-buồn, làm cho lòng người hoang vắng
sầu thương, bơ-vơ giữa thế-giới mưa rơi buồn-bã.
Trước cảnh mưa thu ảm-đạm ở ngòai bệnh-viện, nhạc-sĩ tài ba Ðặng thế Phong
đã xúc-động rồi sáng tác ngay bản nhạc " Giọt mưa thu. " trước khi vĩnh-biệt
trần-gian để lại cho đời những giọt lệ thu sầu thương nức-nở, những giọt lệ tình
ai-oán lâm-ly : " Ngòai hiên giọt mưa thu thánh-thót rơi. Trời lắng u-buồn
mây hắt-hiu ngừng trôi.Nghe gió thỏang mơ-hồ trong mưa thu ai khóc ai than hờ "
Bởi vậy nói đến mưa thu là nói đến một trong những cảnh vật buồn-bã nhất
của trần thế. Ðọc mấy câu thơ sau đây của Bà Huyện Thanh Quan,
ta thấy cảnh mưa thu thật là tiêu-điều buồn-bã:
" Thánh-thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu-sơ
Xanh um cổ-thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng -giang phẳng-lặng tờ. "
Hay hai câu thơ sau đây của nhà thơ Xuân-Diệu cũng cho ta thấy
cảnh lặng lẽ u-buồn :
" Gió thầm, mây lặng , dáng thu xa
Mới tạnh mưa trưa chiều đã tà. "
Tuy-nhiên nếu trăng thu,nắng thu, mưa thu ,là những đề tài bất-hủ cho các văn
thi-sĩ,nhạc-sĩ lấy đó để sáng-tác thì sương thu là một đề tài không kém quan-trọng
để các thi-nhân dệt thành thơ. Vào những lúc trời sáng tinh-sương, ai đã từng
ra sau vườn,đều trông thấy nhưnõg giọt sương đọng trên cành cây,ngọn cỏ giống như
những hạt kim-cương lóng lánh đẹp tuyệt vời. Cho đến ngày hôm nay,rất nhiều
người Việt-nam đã thuộc lòng đọan văn của nhà văn Thanh-Tịnh tả về cảnh sương thu :
" Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu-yếm
nắm tay tôi,dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp." Một nhà thơ nỗi tiếng
như sóng cồn một thời vang bóng đã ca-ngợi sương thu qua bài thơ " Sương rơi.
" Ðó là thi-sĩ Nguyễn-Vỹ với bài thơ hai chữ đã để lại cho đời một tác-phẩm
bất-hủ về sương thu.:
" Sương rơi Rồi hạt Rơi sương
Nặng trĩu Sương trong Cành dương
Trên cành Tan-tác Liễu ngã
Dương-liễu Trong lòng Gió mưa
Nhưng hơi Tả-tơi Tơi-tả
Từng giọt
Gió bấc Em ơi ! Thánh-thót
Lạnh-lùng Từng giọt Từng giọt
Hiu-hắt Thánh-thót Tơi-bời
Thấm vào Từng giọt Mưa rơi,
Em ơi Ðiêu-tàn Gió rơi;
Trong lòng Trên nấm Lá rơi,
Hạt sương Mồ hoang !.. Em ơi ! .. "
Thành một
Vết thương !.. Nguyễn-Vỹ.
Như đã được trình bày ở trên,mùa thu là mùa có lá vàng rơi lác-đác,có trăng thu
mờ ảo giữa đêm buồn,có những giọt mưa rơi thánh-thót thật lâm-ly. Ðã thế,
nhiều lúc ánh nắng chiều thu làm cho người lữ-hành thêm cô-độc bâng-khuâng,
luôn luôn cảm thấy như xa vắng lạc-lòai, như biệt-ly hiu-quạnh.
Vì thế mà nhiều người đã cho rằng, mùa thu là mùa của biệt-ly,của xa cách nên
tình thu thường nức-nở nghẹn-ngào. Mùa thu là mùa nhớ nhung từ đó và
cũng là nhung-nhớ từ đây. Thế nên nói đến mùa thu là nói đến biệt-ly
nhung-nhớ,là nói đến ngăn-cách xa nhau,là nói đến chia-ly buồn-bã và lắm lúc
nói đến vĩnh-biệt ngàn đời để rồi " nghìn-trùng xa cách người đã đi rồi,
còn gì đâu nữa mà khóc với cười ."
Sau đây, ta hãy nghe các thi-nhân Việt-nam nói về sự biệt-ly,sự nhung-nhớ
cũng như những nỗi u-buồn giữa mùa thu :
" Mây vẫn từng không chim bay đi
Khí trời u-uất, hận chia-ly
Ít nhiều thiếu-nữ buồn không nói
Tựa cưả nhìn xa nghĩ-ngợi gì "
(Xuân-Diệu )
Hay những dòng thơ lục-bát đầy vẻ âm-u, tiêu-điều của Huy-Cận;
" Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân-gian e cũng tiêu-điều dưới kia . "
Hoặc những câu thơ đầy nhung-nhớ quằn-quại giữa mùa thu:
" Chao ôi! mong nhớ ! ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn."
(Chế lan Viên)
Hay hình ảnh xa vắng biệt-ly của người chinh-phu trong lòng người cô-phụ :
"Em không nghe rạo-rực
Hình ảnh kẻ chinh-phu
Trong lòng người cô-phụ. "
(Lưu trọng Lư)
Hoặc là những câu thơ đầy nỗi nhớ-thương của thi-nhân :
" Chẳng được như hoa vướng gót nàng ,
Cõi lòng man- mác giá như sương!
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Ðặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương "
(Thái-Can)
Nhưng sự biệt-ly đớn đau nhất hay nỗi nhớ-nhung quằn-quại triền-miên
cũng như sự khổ đau cay đắng suốt đời mà ta có thể thấy được là
những dòng thơ nức-nở lệ nhòa
của nữ thi- sĩ T.T.KH, một nhà thơ đã sáng tác nên những bài thơ bất-hủ
ngàn năm và đã trở thành huyền thọai trong thi-ca Việt-nam. Ta hãy nghe
nhà thơ T.T.KH nức-nở những điệp-khúc tình thu sau đây :
" Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có còn đâu !."
hay là :
"Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái-ân lạt-lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người ."
Tóm lại qua thi-ca Việt-nam, ta thấy hầu hết các thi- nhân nước Việt đều
nói đến mùa thu, ca ngợi mùa thu vì mùa thu có những đêm trăng mờ ảo,
có những lá vàng rơi tuyệt đẹp, có những giọt mưa thu thánh thót rơi thật
lâm-ly, bi-thảm vv.. Và cũng vì mùa thu là mùa của ngăn-cách ,của ly-biệt,
là mùa của nức-nở nghẹn-ngào nên các thi-nhân Việt-nam không ai mà không
xúc-động khi thấy mùa thu đến. Vì vậy ,qua thi-ca Việt-nam,ta thấy
nhiều nhà thơ đã để lại cho đời những bài thơ trữ-tình bất-hủ về mùa thu.
Dương Viết Điền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét