Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2014

NHỮNG BÀI THƠ XUÂN_PTMinh-Hưng_By ĐSon


Ảnh ChinhNguyen L19

Đôi Ngựa trong Sương Thu_Ảnh Phan Hạnh_NTH


ĐÓN XUÂN
 
Lá hoa tươi thắm đón Xuân về
Bên thềm Năm Mới tiễn đông đi
Hồng Lan Đào Cúc cùng khoe sắc
Bình minh đua nở dáng xuân thì.

 
Nắng hồng đôi má bé ngây thơ
Vui mừng đón Tết ngỡ như mơ
Áo quần xúng xính bên ba mẹ
Thong thả chơi Xuân dạo chợ hoa.

 
Thiếu nữ bâng khuâng áo lụa là
Thẫn thờ mong nhớ bóng người xa
Tết về rồi đấy, người đâu nhỉ
Cây Đào trước ngõ thắm màu hoa.

 
Vạn lần cầu cuộc sống an hòa
Sức khỏe bình an đến với ta
Năm cũ vừa qua năm mới tới
An khang - Phước - Lộc - Thọ 
hằng hà
 
Cùng nhau ta hát khúc Xuân ca
Chúc nhau trăm tuổi mãi không già,
Yêu đời yêu mãi Nàng Xuân mới,
Tiếng cười vang, rộn muôn nhà... 

 
Phạm Thị Minh-Hưng
GỌI XUÂN
 

Nàng Xuân ơi cả đất trời mong đợi
Muôn cánh hoa dâng hết nét rạng ngời
Cành lá thắm căng đầy xanh mượt lộc
Hạt sương mai lấp lánh cỏ non tươi

 
Nàng Xuân ơi lòng người như gió mới
Đón mừng Xuân sắm sửa rộn ràng vui
Thời gian nghe chầm chậm phút chia phôi
Đang đếm ngược còn đâu ngày tháng cũ

 
Một chút chơi vơi trong giờ sau cuối
Chút ngậm ngùi tiễn bước tháng năm đi
Chút dư hương thăm thẳm xót xa gì
Như pha lẫn trong niềm vui hớn hở

 
Xuân đến, ban cho đời bao mơ ước
Xuân thắm ngời rực rỡ vạn niềm vui
Xuân, Xuân ơi muôn hoa tươi khoe sắc
Đón chào Xuân bừng nở khắp nơi nơi

 
Ngày tháng cũ - Hai lẻ mười ba 
lui vào dĩ vãng
Đón Chúa Xuân khắp chốn reo mừng
Cùng hát bài ca "Xuân Đã Đến Rồi"
Vang vang tiếng cười lả lơi...muôn nơi,

...Nàng Xuân ơi.
 
Phạm Thị Minh-Hưng
ÁO MỘNG NGÀY XUÂN 2  
 
Tết sắp về rồi sắm áo hoa
Màu xanh đỏ tím đính kim sa
Hay vàng óng ả tô nhan sắc
Lụa mỏng hoa cà dáng thướt tha...

 
Tím nhạt Sầu đông hoa cánh nhỏ
Hoàng lan rực rỡ buổi chiều xưa
Hay màu phượng đỏ sân trường cũ
Tím cánh hoa sim mộng hững hờ?

 
Hãy chọn anh ơi, lụa áo xanh
Xanh màu lộc biếc lá tươi cành
Ngàn hoa nở rộ bừng hương sắc,
Nhuộm thắm hồn thơ...
...Giấc mộng lành
 
Diện áo vàng mơ hoa Tiểu Cúc
Hay hồng lụa nõn cánh Đào phai
Làm duyên thục nữ mừng Xuân mới
Yểu điệu hường nhan, 
mộng ngất ngây... 
 
Phạm Thị Minh-Hưng 
TÌNH XUÂN GỞI GIÓ MÂY  
 
Mây trắng ơi bay về phía nao
Xin cho nhắn gởi chút xôn xao
Chút tình hư ảo bay theo gió
Về ngả trời Xuân có nắng đào 

 
Xin gởi Nàng Xuân chút ngất ngây,
Cánh hoa hồng đỏ, má hây hây
Mảnh tình sao sáng, tình say đắm
Mộng chẳng vơi, tinh ăm ắp đầy.

 
Xin gởi làn mây trắng bay cao
Trời xanh biêng biếc, chút hư hao
Và chút bâng khuâng về nẻo ấy
Tình có là mơ, có khát khao? 

 
Gởi nhé! Mây ơi chút ngọt ngào
Nương theo cánh gió nắng xuân đào
Ngan ngát hương thơm, tình vời vợi
Tình xuân nồng thắm, mộng xinh sao! 

 
Phạm Thị Minh-Hưng.

DÒNG SÔNG XANH & ĐIỆU VALSE




 photo ltv_zps77dde99b.jpg

Thứ Tư, 15 tháng 1, 2014

Thơ mỪNG nĂM mỚI GIáp nGỌ- Đón Tết ở Canada - Con ngựa trong Anh ngữ - Phan Hạnh


   
 Thơ mỪNG nĂM mỚI gIáp nGỌ
    CUNG đàn nảy khúc Xuân Tươi,
    CHÚC mừng năm Mới đất trời nở hoa.
    TÂN Xuân Ân Phúc chan hoà
    XUÂN về, xin chúc nhà nhà Bình An.
    Khang-Ninh-Phước-Lộc-Thọ-Toàn
    Vạn Sự Như Ý,thoả tràn ước mơ
      Quý ông Trẻ mãi Không Già,
    Quý bà eo ả mặn mà tươi Duyên.
       Suốt năm Rủng rỉnh bạc tiền
    cháu con mạnh giỏi ngoan hiền dễ thương.
        Năm Ngựa thắng giải đường trường,
    Công Thành Mã Đáo,Bụng Thon,Chân dài
------------------------------------------------------
   thăngcaonguyen, 15/1/14. 
   Forum DSV/CLBTNS/NBT/taru/TV/DHVK.
***************************************
Đón Tết ở Canada

Xuân Tết gì đâu lạnh thấy bà
Lạnh từ tim phổi tới ngoài da
Bước đi dò dẫm đường trơn trợt
Lạng quạng coi chừng té đó nha
Mở miệng khói bay như có lửa
Rờ cửa điện từ giựt muốn la
Ở cái xứ gì mà ở được 
Dạ thưa cái xứ Canada.

PH - N.T.Hoàng
*
 
Lạnh riết cũng quen

Cứ tới mùa đông lạnh quá trời

Chui rút trong nhà khỏi đi chơi
Tối lên chuồng sớm nằm co cẳng
Mền kéo qua đầu cho ấm hơi
Sáng ra nằm nướng như bánh tráng
Bụng kêu mới chịu dậy mà xơi
Mới trưa đã ngáp như thằng nghiện

Vậy mà ở riết chỉ một nơi.
Quen rồi, hihihi...
PH - N.T.Hoàng
__._,_.___

 


 *
Con ngựa trong Anh ngữ
Phan Hạnh
Việt ngữ của chúng ta không có nhiều chữ khác nhau để gọi con ngựa, chỉ có chữ “ngựa” hoặc chữ “mã” gốc Hán Việt: ngựa con, ngựa già, ngựa đực, ngựa cái, ngựa rừng, ngựa rằn…  Trong khi đó, Anh ngữ có rất nhiều chữ phân biệt để gọi ngựa: horse (nói chung), pony (ngựa nhỏ, ngựa con nói chung, thấp dưới 58 phân Anh), pinto (ngựa có hai độ màu lông đậm lợt khác nhau), dun (ngựa có  sọc), mare (ngựa cái, bốn tuổi trở lên), stallion (ngựa đực, bốn tuổi trở lên), stud (ngựa nọc, chỉ để gieo giống), bronc hay bronco (ngựa chưa được huấn luyện), feral (ngựa trang trại thả về rừng hoặc tự bỏ trốn đi hoang), brumby (tên mà người Úc gọi một con ngựa feral), mustang (ngựa hoang Mỹ châu), foal (ngựa con còn bú sữa mẹ, nói chung), filly (ngựa cái con còn bú sữa mẹ), colt (ngựa đực con còn bú sữa mẹ), weanling (ngựa con mới dứt sữa và bắt đầu ăn cỏ), yearling (ngựa con từ một tới hai tuổi), zebra (ngựa rằn). Ngoài ra còn cả lô tên gọi khác cho ngựa tùy theo đặc tính màu sắc hay chủng loại.
Bị ngựa đá một lần nhớ đời sẽ dễ đưa đến bệnh sợ ngựa, một nỗi sợ về tâm lý, Anh ngữ gọi là hippophobia hoặc equinophobia, trái với sự và người yêu thích ngựa là hippophile hoặc equinophile. Con ngựa nào tỏ ra hung hăng dữ dằn bất trị (ngựa chứng) hay đá người, hay gây sự với ngựa khác thường bị chủ mang đi thiến và trở thành ngựa thiến (gelding). Trong các đơn vị kỵ binh trước thế chiến, ngoài trường hợp tử vong vì té ngựa còn có một số trường hợp bị chính con ngựa mình cỡi đá chết. Thuở nhỏ, tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ từng bị ngựa đá trúng mặt, nhưng người ta không thể quyết đoán có phải vì vậy mà nửa mặt bên trái của ông hơi bị lệch và biến dạng khiến cho ông bị mắt thấp mắt cao.
Từ lâu, tôi đã ngộ nhận chữ “equestrian” là người cỡi ngựa vì trong trí tôi đã quen nghĩ rằng “ian” là tiếp vĩ ngữ gốc La-tinh có nghĩa là người, giống như các chữ Canadian, musician, pedestrian, physician, technician, v.v.. Thật ra “equestrian” có nghĩa là sự cỡi ngựa (the horseback riding), do chữ “equine” (từ gốc La-tinh equus có nghĩa là con thú thuộc loài lừa ngựa nói chung), còn người cỡi ngựa đơn giản chỉ gọi là “horseman”. Từ đó có chữ “horsemanship” và chữ “equitation” là tài cỡi ngựa để phân biệt với chữ “equestrianism” là môn nghệ thuật cỡi ngựa.
Đúng, Equestria là tên của một vùng đất đai, một xứ sở, nhưng đó chỉ là tên của vương quốc giả tưởng của loài ngựa trong My Little Pony: Friendship Is Magic, một loạt phim hoạt hình truyền hình do Hasbro Studios ở Mỹ và studio DHX Media ở Canada sản xuất, ra mắt trình chiếu vào ngày 10 tháng 10 năm 2010. Trong vùng đất huyền diệu Equestria, nhân vật chính, công chúa Twinkle Sparkle, sống với nhóm bạn bè của cô là Applejack, Rainbow Dash, Pinkie Pie, Rarity, Fluttershy và Spike tại thị trấn Ponyville. Sống cùng nhau, họ, tất cả đều là ngựa được nhân cách hóa, tìm hiểu và khám phá về sự kỳ diệu của tình bạn. Hiểu theo kiểu của tôi Equestrian là người nước Equestria thì hỏng. Thế mới biết học tới chết cũng chưa đủ.
Bạn cũng biết, Binh Chủng Thiết Giáp gồm các đơn vị Kỵ Binh, mặc dù vai trò con ngựa đã được thay thế bằng những chiếc xe tăng tối tân, trong Anh ngữ vẫn gọi là Cavalry Corps. Chữ Cavalry xuất xứ từ chữ cavalerie của Pháp, với các chữ có cùng gốc gác như cavale, cavaler, cheval, chevalier, chevaleresque… Hèn gì dân đi vũ trường gọi các cô gái nhảy là ca ve. Hèn chi các bà vợ ghen gọi các cô gái nhảy là ngựa.
Bây giờ xin mời các bạn xem xét qua một số thành ngữ, tục ngữ Anh thông dụng liên quan đến ngựa nhé.
Don’t change horses in midstream. Nghĩa đen: Đừng thay ngựa giữa dòng.
Nghĩa bóng: Đừng thay đổi kế hoạch nửa chừng. Thành ngữ này ngày nay rất phổ biến, chắc tại vì nó được tổng thống Abraham Lincoln dùng trong một bài diễn văn vào năm 1864 với ý nói không nên thay đổi nhân sự hay vị trí khi dự án đang thực hiện nửa chừng. Nếu bạn đã tốn công khó điều khiển một con ngựa đi tới giữa dòng sông một cách suôn sẻ rồi thì tốt hơn bạn đừng tính chuyện đổi ngựa khác vì điều đó quá rủi ro. Có người xem kế hoạch Hoa Kỳ thay thế tổng thống Ngô Đình Diệm là một ví dụ tiêu biểu cho sự thay ngựa giữa dòng, dẫn đến kết quả tai hại hỗn loạn về chính trị và làm suy yếu tiềm lực chống cộng của đất nước non trẻ VNCH.
Don’t look a gift horse in the mouth. Nghĩa đen của câu này là đừng khám răng của con ngựa người ta tặng cho mình. Như bạn biết, răng ngựa mọc dài thêm và nhô ra thêm theo tuổi tác. Xem răng một con ngựa, người ta có thể đoán được tuổi của nó. Theo bản năng tự nhiên của con người (nhất là trẻ con chưa ý thức nhiều về phép lịch sự trong giao tế), mỗi khi nhận được một món quà, người nhận thường háo hức săm soi món quà đó ngay, đôi khi không giấu được sự thất vọng khi thấy món quà không đúng như ý muốn. Theo nghĩa bóng, câu châm ngôn này hàm ý rằng đừng nên quá chú trọng đến phẩm chất của một món quà tặng, nhất là trước mặt người tặng quà. Nên chấp nhận một món quà với lòng biết ơn hơn là chỉ trích món quà không hoàn hảo.
Tương tự với nghĩa trên, ta có thành ngữ Straight from the horse’s mouth, nghĩa đen là thẳng từ miệng con ngựa. Thành ngữ này có nghĩa bóng là tin tức rất đáng tin cậy vì phát xuất từ nguồn gốc nguyên thủy. Sở dĩ người Mỹ có câu nói này là vì ngày xưa khi ngựa còn là phương tiện chuyên chở chính, người ta mua sắm ngựa như ngày nay mua xe hơi. Muốn biết con ngựa được bao nhiêu tuổi, họ phải nhìn vào hàm răng của nó thì mới biết được. Sau này, thành ngữ Straight from the horse's mouth được giới đánh cá ngựa dùng để chỉ những tin tức sốt dẻo cho biết con ngựa nào có ưu thế hơn và sẽ thắng.
You can lead a horse to water but you can’t make him drink. Nghĩa đen: Bạn có thể dắt con ngựa tới chỗ để nước nhưng bạn không thể khiến cho nó uống. Nghĩa bóng: Câu tục ngữ này có từ thế kỷ thứ 16 ở Anh quốc, nghĩa tương đối đơn giản, với ý nói rằng bạn có thể tạo cơ hội cho ai đó nhưng bạn không thể buộc họ phải nắm lấy cơ hội đó. Nói một cách khác, bạn không thể bắt ai đó làm điều gì đó, trừ khi họ đã sẵn sàng muốn làm. Bạn có thể cho một người nào đó lời khuyên tốt nhưng bạn không thể làm cho họ tuân hành áp dụng. Câu tục ngữ này xuất phát từ sự kiện thực tế là ngựa thường ít khi chịu uống nước nơi chưa quen, ngay cả khi chúng đang khát và cần uống.
Charley horse. Tiếng lóng, có nghĩa là vọp bẻ, chuột rút.
A horse of different color. Nghĩa đen: Một con ngựa khác màu. Nghĩa bóng của thành ngữ này là một cái gì đó có thể hoàn toàn tách biệt với những gì mà người ta dự kiến ​​hay tiên liệu, một sự bất ngờ trái với sự mong đợi và gây thất vọng.
Một con ngựa khác màu cũng dùng để chỉ trường hợp một người hay một vật nào đó không phù hợp hay thích ứng với nguyên nhóm. Thành ngữ này bắt nguồn từ lời đối thoại trong màn hai của vở kịch Twelfth Night của William Shakespeare.
Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ John Adams cũng dùng biểu tượng ngựa khác màu để nói về lòng trung thành và sự chia rẽ. Ông gọi một nhóm người chống đối là những con ngựa khác màu.
Every horse thinks its own pack heaviest. Nghĩa đen:Mỗi con ngựa đều nghĩ rằng trọng tải trên lưng mình là nặng nhất. Nghĩa bóng: Theo tâm lý và lẽ thường tình, người ta ai ai cũng chỉ nghĩ đến mình mà không quan tâm đến người khác, hay phàn nàn rằng mình là người phải lãnh phần việc nặng nhọc hơn, số phận của mình kém may mắn hơn mọi người khác. Thật ra ai ai cũng có nỗi khó khăn riêng, nỗi buồn riêng, khó có thể so sánh được. Người khác cũng phải chịu gánh nặng của công việc và nỗi lo nghĩ như nhau.
A one-horse race. Nghĩa đen: Cuộc đua một ngựa. Nghĩa bóng: Một cuộc thi mà trong đó, ngay từ lúc nhập cuộc, một phe ứng thí có khả năng vượt trội xa hơn nhiều so với các đối thủ khác, và rõ ràng có cơ may để giành chiến thắng.
Don’t back the wrong horse. Nghĩa đen: Đừng theo con ngựa dở. Nghĩa bóng: Đừng nhầm ủng hộ, hỗ trợ một ứng cử viên dở vì điều đó chắc chắn sẽ đưa đến thất bại.
Don’t beat a dead horse. Nghĩa đen: Đừng đánh một con ngựa đã chết. Khi một con ngựa chết rồi thì dù người chủ có đánh đập nó, nó cũng không thể đứng dậy đi được nữa. Nghĩa bóng: Đừng cố gắng vô ích trước một chuyện đã rồi.
Don’t put the cart before the horse. Nghĩ đen: Đừng đặt chiếc xe trước con ngựa. (Tiếng Việt có câu Đừng đặt cái cày trước con trâu). Nghĩa bóng: Đừng làm chuyện ngược đời vô lý. Theo lẽ tự nhiên, con ngựa kéo chiếc xe nên con ngựa phải ở trước chiếc xe. Thế giới này có trật tự riêng của nó. Tất cả mọi sự vật, sự việc cũng có trật tự trước sau. Ta không nên hấp tấp, vội vã đốt cháy giai đoạn mà đảo lộn các bước theo đúng trình tự vốn có theo quy luật. Trong tiếng Việt có câu tục ngữ  "Đừng cầm đèn chạy trước ô tô" mang ý nghĩa tương tự. Tốt nhất ta nên tuân thủ đúng các trật tự trong cuộc sống. Câu này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1589 trong quyển sách The Arte of English Poesie của George Puttenham. Có lẽ tác giả đã dịch ra từ một câu tục ngữ cổ Hy Lạp.
Don’t spare the horses. Nghĩa đen: Đừng dành thì giờ lo cho mấy con ngựa. Nghĩa bóng: Ý câu này muốn nói là đừng kể gì đến phương tiện mà hãy chú tâm vào mục đích chính (cứu cánh).
Nguồn gốc câu này có từ thời Nữ hoàng Victoria trị vì nước Anh vào hậu bán thế kỷ thứ 19. Sự tích kể rằng Nữ hoàng Victoria có người phu xe ngựa tên James Darling. Theo truyền thống vương giả thượng lưu, đáng lẽ Nữ hoàng gọi thần dân bằng họ của người đó. Nhưng “Darling” , họ của “tài xế riêng” của bà, lại cũng có nghĩa là “cưng yêu quí”, nếu bà xưng hô như thế e có vẻ không phù hợp.
Vì thế, bất đắc dĩ Nữ hoàng Victoria đành phải gọi người mã phu bắng tên James, một cách xưng hô thân mật của dân giả.
Lần đó sau một chuyến du hành bằng xe lửa hoàng gia, bà trở về London. Vừa đến ga Paddington, bà nôn nóng muốn về “nhà” là cung điện Buckingham. Thấy “bác tài” cứ nhẩn nha cẩn thận xem xét lại mấy con ngựa, bà thốt câu ra lệnh: “Home James! And don’t spare the horses!” (Về nhà ngay James! Đừng màng tới mấy con ngựa!) Và câu nói đó đã “phi nước đại” đi vào lịch sử. 
To Be on Your High Horse. Nghĩa đen: Ngồi cao trên lưng ngựa. Thành ngữ này được dùng từ thời thế kỷ thứ 14 ở Âu Châu, khi giới thượng lưu quyền quý thường cỡi những con ngựa cao nhất mà họ có thể mua được để chứng tỏ là họ quan trọng hơn giới thường dân. Nghĩa bóng: Ngày nay, người Mỹ dùng thành ngữ To Be on Your High Horse để chỉ một người tự cho là mình quan trọng cho nên coi thường người chung quanh.
“Get off your high horse.” Nghĩa đen: “Hãy xuống ngựa đi.” Nghĩa bóng: “Đừng kiêu ngạo nữa.” Một khi đã xuống ngựa, chưa chắc người đó cao hơn về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thái độ của kẻ kiêu ngạo là luôn nghĩ rằng mình ở vị trí cao trọng hơn người khác, đối xử với người khác như thể họ thấp bé hơn mình. Thành ngữ này xuất phát từ thời xưa khi tầng lớp thượng lưu thường cỡi ngựa. Họ có khuynh hướng hành động ngạo mạn của cấp trên khi giao tiếp với một người bình thường. 
“Hold your horses!” Nghĩa đen: “Ngừng ngựa của bạn lại!” Nghĩa bóng: Hãy tạm giữ yên vị trí tại chỗ. Câu này có lẽ bắt nguồn từ chiến trận, khi vị chỉ huy ra lệnh cho binh sĩ của mình hãy bình tĩnh, kìm cương ngựa lại để đợi lệnh mới. Ngày nay, thành ngữ này trở nên thông dụng hơn và được dùng trong mọi trường hợp và có nghĩa là “đừng vội, hãy bình tĩnh, hãy kiên nhẫn chờ thời cơ thuận tiện rồi hãy hành động”.
A dark horse. Nghĩa đen: Một con ngựa đen. Nghĩa bóng: Một nhân vật mới lạ như từ trong bóng tối chui ra, chưa ai biết. Từ ngữ dark horse xuất xứ từ giới đua ngựa cách đây hơn 150 năm để chỉ một con ngựa đua mà không ai biết đến thành tích gì của nó cả. Ngày nay, nó được dùng để chỉ một ứng cử viên mà đa số cử tri chưa nghe nói tới bao giờ. Phần đông những ứng cử viên như vậy thường thua xa trong các cuộc tranh cử, nhưng đôi khi họ cũng làm cho các chuyên gia chính trị phải ngạc nhiên khi họ thắng cử, tạo nên trường hợp mà giới trường đua gọi là ngựa về ngược.
Horse sense. Nghĩa đen: Giác quan của ngựa. Nghĩa bóng: Khả năng tốt khi nhận xét, phán đoán và quyết định một chuyện gì.
Horses for courses. Nghĩa đen: Mỗi con ngựa quen đường đi nước bước của nó. Có con quen đường đất bằng phẳng, có con quen đường rừng hay đường núi hiểm trở. Nghĩa bóng: Mỗi người có một khả năng chuyên môn riêng, không ai giống ai, nên quan trọng là phải dùng đúng người đúng khả năng.
If two ride on a horse, one must ride behind. Nghĩa đen: Nếu hai người cỡi một con ngựa thì một người phải ngồi đàng sau. Nghĩa bóng: Khi hai người cùng chung với nhau làm một việc thì phải có một người chính (cầm đầu, chỉ huy) và một người phụ thì công việc mới êm xuôi.
If wishes were horses, then beggars would ride. Nghĩa đen: Nếu mọi điều ước là có được ngựa thì ngay cả ăn mày cũng sẽ có ngựa để cỡi. Nghĩa bóng: Ước muốn viễn vong mãi mãi cũng chỉ là ước muốn, vì nếu như mọi ước muốn đều trở thành sự thật thì ngay cả một người chẳng cần làm gì hết cũng sẽ có đủ mọi thứ để mà thụ hưởng. Nếu, giá như, ước gì… tất cả mọi giả định đều vô ích.
A nod is as good as a wink (to a blind horse). Nghĩa đen: Một cái gật đầu cũng tốt như một cái nháy mắt (đối với một con ngựa mù). Nghĩa bóng của A nod is as good as a wink: Ý nói chỉ cần một sự ra hiệu vắn tắt ngắn gọn cũng đủ cho người khác hiểu mà không cần phải giải thích cặn kẽ dài dòng. Khi câu này có thêm “to a blind horse” thì nó có nghĩa là: đối với một người kém hiểu biết chuyên môn, dùng từ ngữ đơn giản thường cũng đủ thay vì tốn công giảng giải vòng vo
This is a one-horse town. Nghĩa đen: Đây là thị trấn chỉ có một con ngựa. Nghĩa bóng muốn chỉ đây là một nơi chốn nhỏ ít ai biết đến, không quan trọng.
Thành ngữ này, đầu tiên được ghi vào năm 1857, vì thuở đó có những thị trấn nhỏ chỉ cần một con ngựa duy nhất cũng đủ cho nhu cầu vận chuyển.
Play the ponies. Nghĩa đen: Chơi đùa với ngựa con. Nghĩa bóng: Đây là một câu tiếng lóng của dân đi đánh cá ngựa khi họ tránh dùng “Play the horses” vì không muốn cho người ngoài cuộc biết.
Put a horse out to pasture. Nghĩa đen: Đưa một con ngựa ra đồng cỏ. Khi một con ngựa yếu sức vì tuổi già hay bệnh tật mất khả năng làm việc, chủ thường không dùng nó nữa và thả nó ra đồng suốt ngày nhai cỏ. Nghĩa bóng: Đặt ai đó ra khỏi môi trường hoạt động, cho người đó ngồi chơi xơi nước, với lý do người đó không còn đủ khả năng hoặc không còn thích hợp.
Strong as a horse. Câu ví von dùng để chỉ một người có sức mạnh: mạnh như trâu, mạnh như cọp, mạnh như voi…
Get on one’s hobby horse. Nghĩa đen: Làm bộ như đang cỡi ngựa. Bạn có xem hát bộ bao giờ chưa? Đào kép hát bộ thường kẹp một cây chổi lông gà dưới háng rồi nhún nhẩy trên sàn sân khấu như là đang cỡi ngựa. Hobby horse là chữ để gọi bất cứ vật gì giả làm con ngựa. Theo nghĩa bóng, nếu một người nào đó cỡi hobby horse của họ tức là họ đang ba hoa chích chòe nói về một chủ đề mà họ cho là thú vị và quan trọng, và họ cứ thao thao bất cứ lúc nào mà họ có thể, ngay cả khi người khác không quan tâm để ý và không muốn nghe.
Work horse. Nghĩa đen: ngựa làm việc. Nghĩa bóng mô tả một cá nhân làm việc chăm chỉ, đặc biệt là khi so sánh với những người khác. Đôi khi chữ work horse cũng được dùng để mô tả một người chỉ cắm cúi làm việc hùng hục thật chăm chỉ  nhưng không có năng khiếu suy nghĩ phán đoán.
Trước đây chữ này được dùng để mô tả một con ngựa chủ yếu cho các việc nặng (chẳng hạn như một con ngựa kéo cày) chứ không phải được dùng trong các hoạt động đòi hỏi tay nghề cao hơn nhưng đỡ vất vả hơn, chẳng hạn như để cho chủ cỡi hoặc đua xe.
Dog and pony show. Nghĩa đen: Sô trình diễn chó và ngựa con. Nghĩa bóng: Quảng cáo rầm rộ nhưng thực chất nội dung không có gì quá đặc biệt. Ví dụ, 'Cuộc họp được cho là để mô tả một chiến lược bán hàng mới nhưng thực sự chỉ là cách tiếp thị cũ. Đúng là một màn trình diễn chó và ngựa con.’ Thuật ngữ này bắt đầu từ những năm 1800, khi những đoàn xiếc lưu diễn khá phổ biến. Một số đoàn xiếc nhỏ không thể có đủ khả năng sở hữu các động vật kỳ lạ hoặc thuê mướn các biểu diễn viên tài ba, vì vậy họ cung cấp các màn trình diễn chỉ có chó và ngựa con. Trường hợp như vậy thường gây thất vọng cho khán giả địa phương vốn mong đợi cái gì hào hứng thú vị hơn như quảng cáo.
Old war horse. Con chiến mã già. Nghĩa bóng thành ngữ này chỉ một người từng trải kinh nghiệm chiến tranh, một chiến binh về già, hay cũng có thể dùng để chỉ một người già dặn dạn dày kinh nghiệm trong bất cứ lãnh vực nào khác, như chính trị, tài chánh chẳng hạn.
Trojan Horse. Ngựa thành Troy. Nghĩa bóng chỉ một cái gì đó nguy hiểm được che đậy bên trong một cái gì đó trông an toàn hoặc có lợi. Nguồn gốc của thành ngữ này nói về cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp và Troy giữa thế kỷ 13 trước Công nguyên, khi người Hy Lạp xây dựng một con ngựa gỗ lớn và để lại bên ngoài cổng thành người Troy như một món quà tặng. Tuy nhiên, người Hy Lạp đã giấu những người lính trong con ngựa gỗ, vì vậy khi người Troy (Trojan) kéo con ngựa  quà vào thành của họ, toán quân “biệt kích” núp trong thân ngựa rỗng đợi khi đêm xuống đã giết lính gác và mở cửa thành cho quân đội Hy Lạp tràn vào tấn công và chiếm được thành Troy.
Đối với người dùng Internet (cư dân mạng), Trojan là tên của một loại virus, mầm độc hại được ẩn giấu bên trong các nhu liệu ứng dụng hữu ích, vì vậy khi người nào tải nhu liệu này về máy tính của họ, virus Trojan sẽ xâm nhập và truy cập vào dữ liệu của máy tính.
Để kết thúc bài dông dài này, người viết xin liệt kê một số sự kiện về ngựa sau đây.
- Ngựa có ruột non bình thường dài khoảng 75 feet, ruột già bình thường dài khoảng 12 feet.
- Ngựa sản xuất trung bình 12 lít nước bọt mỗi ngày để giúp cho sự tiêu hoá cỏ khô được dễ dàng.
- Ngựa không thể thở bằng miệng và không thể nôn mửa.
- Ngựa chạy có thể đạt đến tốc độ tối đa là khoảng 45 mph (70 km/giờ), tốc độ đi trung bình vào khoảng ba, bốn dặm một giờ.
- Ngựa có đôi mắt lớn nhất so với bất kỳ động vật nào.
- Ngựa và người là hai loài động vật duy nhất có thể đổ mồ hôi qua da để làm mát.
- Ngựa tiêu thụ một lít (0.25 gallon) dưỡng khí một phút trong khi đi bộ. Nhưng khi phi nước đại trong một cuộc chạy đua, ngựa thở dồn dập mỗi hơi một bước chạy, tiêu thụ gần 60 lít (15 gallon) oxy mỗi phút.
- Ngựa có kích thước thân thể trung bình chứa khoảng 50 pint máu (28 lít) lưu thông qua hệ thống tuần hoàn ở chu kỳ 40 giây.
- Ngựa tốn hao nhiều năng lượng khi nằm hơn là khi đứng.
- Ngựa có bộ phận cơ thể đặc biệt ở chân cho phép chúng ngủ trong khi đứng mà không ngã.
- Ngựa tốn hao năng lượng khi bơi nhiều hơn khi chạy.
- Ngựa có lông có mô hình xoắn ốc độc đáo như vân tay của người, một đặc điểm để xác định giống loại.
- Ngựa Camargue (tên một vùng đất thấp và đầm lầy có sông Rhone chảy qua thuộc miền nam nước Pháp) có màu đen khi mới sinh nhưng lông đổi thành trắng khi ngựa trưởng thành.
- Ngựa có thể diễn đạt cảm xúc bằng tai, mũi, mắt để biểu lộ tâm trạng. Chẳng hạn khi ngựa phình mũi, dựng tai là lúc nó bực giận khó chịu đấy!
Cười chuyện ngựa:
1.
Một cô gái tóc vàng quyết định thử cỡi ngựa, mặc dù trước đó cô chưa bao giờ học cỡi ngựa và cũng chẳng có kinh nghiệm nào. Cô tự leo lên lưng ngựa mà chẳng cần ai giúp và con ngựa ngay lập tức chuyển động. Nó giữ tốc độ ổn định và nhịp nhàng, nhưng cô gái tóc vàng bắt đầu bị tuột từ từ khỏi yên ngựa.
Hoảng hốt, cô chụp lấy bờm ngựa, nhưng dường như không thể nắm vững. Cô cố gắng choàng tay quanh cổ của con ngựa, nhưng rồi cô cũng bị tuột xuống bên hông con ngựa. Con ngựa vẫn tiếp tục phi nước đại, dường như chẳng đoái hoài gì đến người cưỡi nó đang gặp trở ngại.
Sau cùng, cô buông tay ra và nhảy ra khỏi con ngựa để mong đáp xuống nơi an toàn. Thật không may, chân của cô đã bị vướng vào bàn đạp, thế là cô chỉ còn cách cầu may cho mình khỏi bị móng ngựa đạp trúng, trong khi cái đầu của cô chạm mặt đất liên tục. Cô sợ hãi và tuyệt vọng đến gần như bất tỉnh.
Nhưng may cho vận số của cô, người quản lý của tiệm Walmart đã nhìn thấy chuyện gì đang xảy ra nên tắt điện. Và con ngựa máy tức khắc dừng lại.
2.
Một ngày nọ, một người đàn ông đi qua một trang trại và nhìn thấy một con ngựa đẹp. Muốn mua con ngựa đó, ông ta bèn nói với người nông dân:
- "Tôi thấy con ngựa của ông trông đẹp quá nên tôi thích và muốn mua. Vậy nếu tôi trả cho ông 500 đồng, ông có chịu bán không?"
Người nông dân đáp:
- “Con ngựa trông không tốt như ông nghĩ đâu. Vã lại nó không phải để bán.”
Người khách vẫn nài nĩ:
- "Tôi lại thấy nó trông đẹp đấy chứ. Tôi sẽ trả cho ông một ngàn đồng.”
- "Tôi đã bảo nó không nhìn tốt như ông nghĩ đâu. Nhưng nếu ông muốn mua nó quá thì tôi bán cho ông đó.”
Ngày hôm sau, người đàn ông quay trở lại với vẻ giận dữ. Ông đến trước mặt người nông dân và la lên:
- "Anh bán cho tôi một con ngựa mù. Anh lừa tôi!"
Người nông dân bình tĩnh trả lời:
- "Thì tôi đã nói với ông là nó không nhìn tốt như ông nghĩ đâu, đúng không?"
Phan Hạnh. Giáp Ngọ 2014.

alt 
Xe  ngựa Mỹ Tho
__._,_.___

DÁNG XUÂN_Thơ PTMH Cảm tác ÁO XUÂN THÌ_Hư Vô

ImageProxy.mvc

ÁO XUÂN THÌ

Ơn em,
áo Tết đã vàng
Đàn chim vỗ cánh dung nhan
dậy thì
Tôi về mất dấu
thiên di
Đường năm bảy ngả biết đi
lối nào?

Vườn xưa
nắng ở trên cao
Bóng nghiêng chưa tới lối vào
áo em
Cảm ơn,
phố vẫn trinh nguyên
Để tôi giấu kín tôi riêng
hình hài.

Đường nào
mái tóc chẻ hai?
Nhánh chia Đề Thám cho
dài Lý Bôn
Từ em,
đôi mắt biết buồn
Áo bay
cuốn góc linh hồn tôi theo.

Tay trần che giấc
chiêm bao
Dáng xuân mù mịt tơ nhầu
đáy gương
Lối về
mất dấu uyên ương
Tôi nghe đã tới cuối đường
bơ vơ…

Hư Vô
Người Tình Hư Vô
**

 DÁNG XUÂN

Cành Mai ngõ trước trổ vàng
Kiêu sa cánh mỏng mơ màng Tường Vi
Áo em trắng xóa xuân thì
Tà đôi vạt xẻ, bờ mi lụa đào...

Sân trường cỏ mọc xanh xao
Nắng trưa đứng đợi lối nào có em
Mong chờ gót ngọc bên thềm
Dáng hồng thục nữ, dịu hiền vóc mai

Tóc thề buông xỏa bờ vai
Thơ ngây đôi tám tuổi hay dỗi hờn
Lan Đào khoe sắc tỏa hương
Em về đâu đó chở hồn tôi theo.

Ngẩn ngơ trở giấc chiêm bao
Dáng Xuân là lụa, tình nào ngát hương
Tìm nhau lạc dấu thiên đường
Tuổi hồng nhuộm tím nỗi buồn hoang vu...

Phạm Thị Minh-Hưng

1510568_190455797817938_455778551_n 
Tìm nhau lạc dấu thiên đường...
.

**

image

*

Trang Thơ - Nhạc:



Bấm vào tấm hình,sẽ ra tấm hình lớn


https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/0/05/Paris_montage_2013.jpg


Thứ Ba, 14 tháng 1, 2014

MÂY BÂNG KHUÂNG - Thơ PTMH Phổ Nhạc





MÂY BÂNG KHUÂNG

Mây trắng bâng khuâng nắng Hạ vàng
Mây đùa bên gió mây thênh thang
Về đâu bờ bến nào mây hỡi
Có tiếc ngày qua mộng vỡ tan

Mây trắng bâng khuâng chiều mênh mang
Về đâu mây hỡi chốn xa ngàn
Làm sao ta có ngày yêu dấu
Mưa buồn mây biền biệt lang thang

Bâng khuâng mây trắng tình chơi vơi
Đường xa muôn lối có vui gì
Có đợi chờ ai nơi nẽo cũ
Còn đâu ngày tháng sẽ dần vơi

Mùa Đông rét mướt mây về đâu
Ngàn hoa ủ rủ cánh u sầu
Bàng bạc u buồn tình hiu hắt
Tìm đâu mây trắng đã xa xôi

Mây không có tuổi già chi mây
Ngàn năm không mõi bay qua trời
Ngàn phuơng lộng gió xôn xao nắng
Mặc tình đời bễ dâu phôi pha!

PHẠM THỊ MINH HƯNG

ÁO XUÂN THÌ - HƯƠNGSẮCTHÁNGGIÊNG - TÌNHKHÚCBUỒN


ImageProxy.mvc

Áo Xuân Thì

Ơn em,
áo Tết đã vàng
Đàn chim vỗ cánh dung nhan
dậy thì
Tôi về mất dấu
thiên di
Đường năm bảy ngả biết đi
lối nào?
Vườn xưa
nắng ở trên cao
Bóng nghiêng chưa tới lối vào
áo em
Cảm ơn,
phố vẫn trinh nguyên
Để tôi giấu kín tôi riêng
hình hài.
Đường nào
mái tóc chẻ hai?
Nhánh chia Đề Thám cho
dài Lý Bôn
Từ em,
đôi mắt biết buồn
Áo bay
cuốn góc linh hồn tôi theo.
Tay trần che giấc
chiêm bao
Dáng xuân mù mịt tơ nhầu
đáy gương
Lối về
mất dấu uyên ương
Tôi nghe đã tới cuối đường
bơ vơ…
Hư Vô
Hương Sắc Tháng Giêng

Tháng Giêng gió lộng qua cành biếc
Đánh thức trong vườn bao nụ thơm
Hình như có thoáng hương quỳnh muộn
Sóng sáng nghiêng lòng, đôi hạt sương

 
Phố xá thênh thang muà lễ hội
Trăm hồng nghìn tía vẽ tranh xuân
Riêng em yểu điệu màu thiên lý
Nón múa cho trời bỗng thêm duyên

 
Thuyền chở trăng xưa về bến cũ
Hay mãi rong chơi trăm ngả sông
Đêm qua có cánh hồng chợt tím
Lả xuống tim người, vay chút hương

 
Đầu năm có điều gì rất lạ
Níu không đành, buông chẳng nỡ buông
Hình như cứ bâng khuâng nhè nhẹ
Theo bước chân ai về lối quen …

  Mường Mán

THƠ XUÂN - 2014 - GIÁP NGỌ - By ĐĂNG SƠN


MỪNG XUÂN
GIÁP NGỌ  
 
Giáp xuân nhộn nhịp khắp gần xa
Ngọ tết tưng bừng đất nước ta
Chúc tất ba con tròn hạnh phúc
Mừng toàn dân tộc hết can qua
Bạn vui gia đạo luôn an lạc
Hữu hảo tình duyên thật mặn mà
Bốn biển kết thân cùng tiến bộ
Phương cường đây đó trổ ngàn hoa.
 Từ Thanh Hà
LỜI NGUYỆN
ĐẦU NĂM 
 
 Nguyện xin đất nước sẽ tươi xinh
Cầu muốn toàn dân sống thái bình
Phật sẽ chở che ban hạnh phúc
Chúa hằng giải thoát khỏi điêu linh
Phù trì kẻ khó luôn an phận
Trợ giúp người ngay tiếp giữ mình
Việt tộc rạng ngời trang sử sách
Nam bang cường thịng sống văn minh. 
Từ Thanh Hà
ĐÓN XUÂN
 
Lá hoa tươi thắm đón Xuân về
Bên thềm Năm Mới tiễn đông đi
Hồng Lan Đào Cúc cùng khoe sắc
Bình minh đua nở dáng xuân thì.

 
Nắng hồng đôi má bé ngây thơ
Vui mừng đón Tết ngỡ như mơ
Áo quần xúng xính bên ba mẹ
Thong thả chơi Xuân dạo chợ hoa.

 
Thiếu nữ bâng khuâng áo lụa là
Thẫn thờ mong nhớ bóng người xa
Tết về rồi đấy, người đâu nhỉ
Cây Đào trước ngõ thắm màu hoa.

 
Vạn lần cầu cuộc sống an hòa
Sức khỏe bình an đến với ta
Năm cũ vừa qua năm mới tới
An khang - Phước - Lộc - Thọ 
hằng hà
 
Cùng nhau ta hát khúc Xuân ca
Chúc nhau trăm tuổi mãi không già,
Yêu đời yêu mãi Nàng Xuân mới,
Tiếng cười vang, rộn rã muôn nhà... 

 
Phạm Thị Minh-Hưng
GỌI XUÂN
 

Nàng Xuân ơi cả đất trời mong đợi
Muôn cánh hoa dâng hết nét rạng ngời
Cành lá thắm căng đầy xanh mượt lộc
Hạt sương mai lấp lánh cỏ non tươi

 
Nàng Xuân ơi lòng người như gió mới
Đón mừng Xuân sắm sửa rộn ràng vui
Thời gian nghe chầm chậm phút chia phôi
Đang đếm ngược còn đâu ngày tháng cũ

 
Một chút chơi vơi trong giờ sau cuối
Chút ngậm ngùi tiễn bước tháng năm đi
Chút dư hương thăm thẳm xót xa gì
Như pha lẫn trong niềm vui hớn hở

 
Xuân đến, ban cho đời bao mơ ước
Xuân thắm ngời rực rỡ vạn niềm vui
Xuân, Xuân ơi muôn hoa tươi khoe sắc
Đón chào Xuân bừng nở khắp nơi nơi

 
Ngày tháng cũ - Hai lẻ mười ba 
lui vào dĩ vãng
Đón Chúa Xuân khắp chốn reo mừng
Cùng hát bài ca "Xuân Đã Đến Rồi"
Vang vang tiếng cười lả lơi...muôn nơi,

...Nàng Xuân ơi.
 
Phạm Thị Minh-Hưng
ÁO MỘNG NGÀY XUÂN 2  
 
Tết sắp về rồi sắm áo hoa
Màu xanh đỏ tím đính kim sa
Hay vàng óng ả tô nhan sắc
Lụa mỏng hoa cà dáng thướt tha...

 
Tím nhạt Sầu đông hoa cánh nhỏ
Hoàng lan rực rỡ buổi chiều xưa
Hay màu phượng đỏ sân trường cũ
Tím cánh hoa sim mộng hững hờ?

 
Hãy chọn anh ơi, lụa áo xanh
Xanh màu lộc biếc lá tươi cành
Ngàn hoa nở rộ bừng hương sắc,
Nhuộm thắm hồn thơ...
...Giấc mộng lành
 
Diện áo vàng mơ hoa Tiểu Cúc
Hay hồng lụa nõn cánh Đào phai
Làm duyên thục nữ mừng Xuân mới
Yểu điệu hường nhan, 
mộng ngất ngây... 
 
Phạm Thị Minh-Hưng 
TÌNH XUÂN GỞI GIÓ MÂY  
 
Mây trắng ơi bay về phía nao
Xin cho nhắn gởi chút xôn xao
Chút tình hư ảo bay theo gió
Về ngả trời Xuân có nắng đào 

 
Xin gởi Nàng Xuân chút ngất ngây,
Cánh hoa hồng đỏ, má hây hây
Mảnh tình sao sáng, tình say đắm
Mộng chẳng vơi, tinh ăm ắp đầy.

 
Xin gởi làn mây trắng bay cao
Trời xanh biêng biếc, chút hư hao
Và chút bâng khuâng về nẻo ấy
Tình có là mơ, có khát khao? 

 
Gởi nhé! Mây ơi chút ngọt ngào
Nương theo cánh gió nắng xuân đào
Ngan ngát hương thơm, tình vời vợi
Tình xuân nồng thắm, mộng xinh sao! 

 
Phạm Thị Minh-Hưng.
Mâm Cỗ, Quà Đầu Năm

1.
dọn ra một cỗ quê nhà
một bầu non nước làm quà chiến tranh
thôi đừng khóc nữa, mắt xanh
lệ người đổ mãi lâu thành biển dâu vô đây tránh ngọn mưa mau
đứng chi ngoài gió vườn sau thêm buồn
phụ anh khiêng nước vô hồn
tạt cho sạch mớ tang thương ra ngoài
ngồi đi ngồi xuống, mảnh mai
chiều rồi đêm tới đã dài mé sau
đãi em, xin trộn sắc màu
vẽ nên hực hỡ em sầu oán ai

2.
đãi em đỏ bóng non đoài
rì rào sóng vỗ xanh hoài niềm mơ
về lênh đênh với con đò
mênh mông gió đẩy giọng hò xa xăm đãi em một cỗ trăng rằm
xót lòng lữ thứ trăng đầm đìa soi
mở trang sử sách ra coi
nghe hồn chữ nghĩa cũng đòi đoạn câu
đãi em vài mấy nhịp cầu
nhấp nhô nước chảy cái sầu trong veo
lòng anh vốn nặng buồn đeo
nhiều khi tưởng ngã chúi theo nỗi niềm

3.
tháng này ngày nín như im
đêm sâu như ấn trái tim vô hồn
nhớ người chết dấp trên cồn
đem vàng bạc đốt hoàng hôn đỏ trời muốn đào kỷ niệm mà coi
đạp lên cát bụi sợ lòi máu xương
ngó quanh mắt chạm góc tường
vòng hoa cườm đục màu sương sa mù 
nhớ rồi cảnh trí tháng tư
có người nằm chết y như giấc nồng
trời cao đất rộng hết lòng
mở ra khép lại thành vòng hoa tươi

4.
đãi em giọng khóc giọng cười
đang buồn lại hóa ra vui không ngờ
ta đi từ một bài thơ
ngâm cuồng vài điệu phất phơ ta về đãi em óng mượt đường đê
lúa thơm cô gái gánh về nhanh nhanh
mồ hôi ướt nắng long lanh
nhỏ xuống đất thành hạt giống mùa sau
đãi em một mối tình đầu
cuộc tình của tấm lòng giàu thủy chung
đời vui như cảnh tao phùng
đôi tay nắm níu lòng cùng ngấm mê

5.
ơn đời thổi ngọn gió quê
thổi em biệt xứ giạt về bến anh
con chim xuân hót trên cành
líu lo rụng xuống màu xanh la đà  mời em một chén quê nhà
một ly non nước làm quà đầu năm.

PHAN NI TẤN
TRẺ THƠ SA PA, 
MÙA ĐÔNG SA PA. 
 
Những du khách đã kéo nhau về đây,
Vào chốn rừng sâu hay qua thị trấn,
Mùa Xuân chưa về, mùa Đông dài lắm,
Lạnh bất ngờ tuyết trắng nẻo Sa Pa.


 
Tuyết trên lối đi tuyết phủ mái nhà,
Những con đường mòn chìm trong hoang lạnh,
Tuyết đông đá trên chùm cây lấp lánh,
Tuyết đẹp như trong truyện cố tích xưa.
Tuyết không đẹp dưới đôi chân trẻ thơ,
Những em bé con nhà nghèo rừng núi,
Không được ấp ủ  áo quần, giày mới,
Đôi chân không thấm thía lạnh cuộc đời.


 
Em bé Sa Pa tím lạnh đôi môi,
Vì  trong gío có tuyết tan thêm lạnh,
Ngôi nhà gỗ vách thưa không đủ ấm,
Gío vào nhà và ngoài sân tuyết đầy.
Mùa Đông Sa Pa tuyết trắng chân mây,
Cả vùng cao núi rừng như yên ngủ,
Trâu bò tránh rét vào chuồng che gío,
Nương rẫy trên đồng thương qúa ngô khoai.
Em bé Sa Pa đôi chân thơ ngây,
Đôi chân lấm lem trên đường tuyết đọng,
Đôi má  em khô mùa Đông khắc nghiệt,
Em chỉ mặc áo nhưng không mặc quần.


 
Em bé Sa Pa với đôi chân trần,
Mai em lớn sẽ lên rừng xuống núi,
Lại trồng ngô khoai, ruộng bậc thang ấy,
Đôi chân trần cực khổ sẽ quen đi.
Mùa Đông năm nay khách đến Sa Pa ,
Khách chụp hình các em làm kỷ niệm,
Những đôi chân trần trẻ thơ trên tuyết,
Có mang về nhà nỗi cảm thương không?
Nguyễn Thị Thanh Dương
( Jan. 10, 2014 )
  
TẾT VỀ BÊN NHAU    

 Xuân sang phơi phới mưa bay
    Quê nhà đón Tết nhớ ngày bên nhau
    Mây trôi lãng đãng bên cầu
    Gío nghiêng thương nhớ dài câu ân tình
    
Sương mai đọng lá bình minh
    Ngút ngàn hương thắm trao tình lứa đôi
    Thông reo Tự Đức đò trôi (1)
    Hương Giang lờ lững gọi mời khúc ca
    
Điệu Nam Ai lượn trăng ngà
    Tiếng chèo khua nước thiết tha câu hò
    Tóc mềm vai chạm ngẩn ngơ
    Đôi tim rạo rực đợi chờ tình trao
    
Đông Ba cúc, trúc, anh đào
    Huế em thương nhớ đón giao thừa về
    Pháo bông quyện gót bên lề
    Đỏ lòng dưa hấu câu thề đỏ môi.
Kim Hương
   (1) thăm lăng Tự Đức bằng thuyền
*
ĐĂNG SƠN_NTH

Hoa anh đào đỏ (3)

Áo Mộng Ngày Xuân1

Tết sắp đến rồi chọn áo hoa
Áo màu xanh đỏ đính kim sa
Áo vàng lộng lẫy tô nhan sắc
Hay áo hoa cà mỏng lụa là...
Anh thích áo em hoa tím Soan
Pense' màu nhung nhớ ngút ngàn
Hay màu mực tím tình chung thủy
Tím cánh hoa sim mộng dở dang?
Em sẽ vì anh mặc áo xanh
Xanh màu trời biếc áng mây xinh
Hoa lá Xuân về bừng sắc thắm
Áo em xanh, ước mộng lung linh...
Em chọn thêm áo vàng Cúc Mai
Áo hồng lụa nõn cánh Đào phai
Làm duyên thục nữ đầu Xuân mới
Hương Xuân ngây ngất, tình nồng say...
 Phạm Thị Minh-Hưng 







THƠ Và THƠ HỌA - THƠ CẢM TÁC


Theo Em Tôi Rụng La Đà

Tay nghiêng vành nón che trời
Che em tận tụy yêu người trần gian
Ước gì bóng nón nằm ngang
Che giùm tôi với cây đàn câu ca
Theo em tôi rụng la đà
Chìm trong bọt nước quê nhà lênh
đênh
Cái sầu tôi vốn không tên
Lại nghe tiếng thở dài trên tay người
Nghiêng nghiêng vành nón che trời
Biết bao đằm thắm như lời tạ ơn
Ơn em không nhớ tôi hờn
Cho dù đời có là cơn bão bùng
Ơn con mắt đẹp não nùng
Gần em tôi thấy muôn trùng chia xa
Khoan khoan mình chớ bước ra
Để tôi làm gió thổi tà áo bay
Áo em tím vạt bông mây
Nhuộm tôi tím cả vòng tay ân tình
Phan Ni Tấn
Thơ Phan Ni Tấn, 
Nguyễn Hữu Tân phổ nhạc & hát.
Cùng Anh Chia Nỗi Sầu Em 
(Bài họa)
Chiều nghiêng bóng nắng lưng trời
Hoàng hôn nhuộm tím núi đồi thênh thang
Một đời duyên kiếp trái ngang
Sầu tư ai gảy khúc đàn thu ca
Nợ tình dan díu la đà.
Còn vương một thuở ngọc ngà chênh vênh
Con đường xưa đã quên tên
Như lời thề hẹn sắc son cùng người 
Bàn tay định mệnh của trời
Phụ phàng nhưng vẫn ngàn đời nhớ ơn
Yêu anh dẫu chút dỗi hờn
Vẫn tình em đó nửa con mắt buồn
Giữa dòng lệ thắm rơi tuôn 
Chờ người duyên ước miên trường cách xa
Từ trong giông tố bước ra
Cùng anh nửa mảnh trăng tà ngủ say 
Nguyệt cầm thổn thức trời mây
Lướt trên phím nhớ ngất ngây hương tình .
Ngọc Quyên 
Thơ Ngọc Quyên,  (Bản nhạc mới cập nhật)
Nguyễn Hữu Tân phổ nhạc& hát.
Đếm Sầu
Theo Em

 Tay cầm vành nón che nghiêng
Dõi nhìn theo bóng mây biền biệt trôi
Quay ngang che dạ bồi hồi
Làm sao che được cả đời nhớ nhung

Nhớ mây, mây vẫn dửng dưng
Mong trời lặng gió mây đừng bay đi
Gió ru tiếng hát thầm thì
Hoa xưa héo úa còn gì cho nhau

Pháo hồng em đã qua cầu
Cho mưa từng giọt đếm sầu theo em
Tay nghiêng vành nón che rèm
Che luôn bóng mắt lấm lem lệ nhòa

TIễn người trong tiếng pháo hoa 
 Cười lên để thấy vỡ òa niềm đau
Tay run ngửa nón hứng sầu 
Để sầu rơi rụng nhịp cầu nhớ thương

Gió ơi thổi áo vấn vương
Nhuộm màu sim tím con đường em đi

Diễm Hương
Biển Vắng Chiều Xuân

Một mình biển vắng chiều rơi
Nhớ nhung kỷ niệm chơi vơi ngút ngàn
Thủy triều biển sóng dâng tràn
Bổng trầm âm hưởng tiếng đàn lời ca

Tình xanh lớp sóng la đà 
Bao nhiêu bọt nước bãi xa gập ghềnh
Thuyền tình sóng nổi lênh đênh
Tìm đâu ước hẹn đã trên môi người...

Xuân sang đào cúc rạng ngời
Hồng nhan bẽ phận một đời héo hon
Mắt trong vướng nét dỗi hờn
Tiếc lời ai đã theo cơn gió buồn...

Phương anh, tuyết trắng lạnh lùng
Nơi này đón Tết muôn trùng cách xa
Thương sao ngọt đắng ngày qua
Người đi đi mãi trăng tà khuất mây...

Tưởng như tình quẩn quanh đây
Hoàng hôn biển tím, cỏ cây vô tình...!
Chiều nay biển vắng riêng mình
Có còn không đấy ẩn tình ngày thơ?

Phạm Thị Minh-Hưng.
ĐĂNG SƠN

GIÁO SƯ NGUYỄN CHUNG TÚ - MỘT NHÀ KHOA HỌC - MỘT NGƯỜI THẦY


Cao Xuân An


Giáo sư Nguyễn Chung Tú


image
VS
 
Giáo sư Nguyễn Chung Tú tại lễ mừng thượng thọ 85 tuổi do khoa vật lý trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia TPHCM) tổ chức ngày 31.8.2007.
Chúng tôi được tin giáo sư Nguyễn Chung Tú, cựu Trưởng ban Vật lý, cựu Khoa trưởng trường Đại học Khoa học Sài Gòn 1965-1973, đã từ trần vào ngày 12.1.2014 tại TP HCM, thọ 92 tuổi. Tang lễ sẽ cử hành vào ngày thứ tư 15.1.2014.
Giáo sư Nguyễn Chung Tú sinh tại Hà Nội ngày 31 tháng 8 năm 1922, năm nay được 92 tuổi. Tốt nghiệp cử nhân tại Đại học Hà Nội năm 1946, ông đã bắt đầu sự nghiệp giảng dạy và nghiên cứu tại đây cho tới năm 1954, rồi sau đó tại Đại học Khoa học Sài Gòn trước khi sang Pháp nghiên cứu về vật lý hạt nhân ở Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử (CEA, Saclay). Năm 1960 ông trình luận án tiến sĩ quốc gia Pháp (doctorat d'Etat) về Vật lý tại Đại Học Rennes, với đề tài "Hiện tượng phát huỳnh quang của CdI2(Pb)", được hạng tối danh dự với lời khen của ban giám khảo.
Ngay trong năm 1960, ông đã hồi hương phục vụ tại đại học khoa học Sài Gòn, nơi ông gắn bó cả sự nghiệp khoa học của mình, và cũng là nơi ông đã đào tạo nhiều thế hệ các nhà khoa học ở miền Nam cho tới năm 1975 và cả nước sau đó. Ngoài các công việc giảng dạy và nghiên cứu vật lý, Giáo sư Nguyễn Chung Tú luôn luôn quan tâm đến các vấn đề xã hội và giáo dục nói chung. Trước và sau năm 1975, ông đã có nhiều bài viết về các vấn đề này trên báo chí chuyên môn cũng như phổ thông. Năm 1994, ông được Nhà nước trao tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú.
Giáo sư Nguyễn Chung Tú là tác giả của 33 cuốn sách giáo khoa và khoảng 100 bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học trong và ngoài nước.
Theo một bài viết trên trang Khoahocsaigon.com của GS Cao Xuân An, một học trò thân thiết của ông, các phẩm chính của Gs Nguyễn Chung Tú gồm có : Dòng điện một chiều (1950), Nhiệt học (1951), Etudes expérimentales de la luminescence de l’iodure de cadmium activé au plomb (1960), Quang học (1969-1971), Danh từ Vật lý (1962), Năng lượng mặt trời (1980), Vật lý vĩ mô (1994), Những mũi nhọn trong quang học hiện đại (1996).
Diễn Đàn xin chân thành chia buồn cùng gia đình Giáo sư Nguyễn Chung Tú, cũng như với đông đảo bạn hữu, đồng nghiệp .
Truong Đình Liên_NNVT.
** 
CAO XUÂN AN 
Tôi được biết Giáo Sư Nguyễn Chung Tú qua bài học đầu tiên về gương phẳng. Với thí nghiệm một tấm kính trong suốt ở giữa, 2 cây nến ở hai bên, đối xứng, nhưng một cây được thắp, một cây không. Khi Giáo Sư quay cây nến thắp sáng ra trước, nhìn trong kính, thấy cây kia cũng được thắp sáng. Chỉ trong một thoáng, sự đối xứng giữa ảnh ảo và vật thật đã được cảm nhận một cách nhanh chóng. Mặc dù trước đó tôi đã được học về gương phẳng từ lớp Đệ Tứ (lớp 9) và lớp Đệ Nhị (lớp 11), nhưng bài học này ở năm Toán-Lý-Hóa (MPC) đầu Đại Học vẫn là bài học làm tôi ghi nhớ sâu đậm mãi đến nay. Bởi tính cách thực nghiệm, bởi sự giản dị, và bởi phương pháp sư phạm của giáo sư. Sau đó, có cơ duyên, tôi được thụ giáo trong nhiều năm và cộng  sự với Giáo Sư trong khoa Vật Lý về giảng dạy cũng như những sinh hoạt ngoại học đường. Tôi có nhiều cơ hội tiếp xúc và nhận thấy, Giáo Sư chẳng những là một nhà khoa học, một nhà mô phạm, mà Giáo Sư còn luôn luôn quan tâm đến các vấn đề khác như giáo dục, văn hóa, và đạo đức nữa. Ấy là không kể tài quản trị với nhiều kinh nghiệm. Giáo Sư là một người thày. 

Vài nét về tiểu sử.



Giáo Sư  Nguyễn Chung Tú sinh tại Hà Nội ngày 31/08/1922, năm nay được 91 tuổi. Xuất thân trong một gia đình có nhiều nhà giáo (thân phụ, chú ruột và chị cả), sự nghiệp của Giáo Sư gắn liền với Đại Học Khoa Học Saigon (ĐHKHSG).



Tuy thân phụ mất sớm, lúc chỉ mới 10 tuổi, nhưng Giáo Sư rất hiếu học. Giáo Sư  từng là học sinh trường Bưởi (sau này là trường Chu Văn An), đậu Tú Tài Toán năm 1942 với phần thưởng danh dự toàn trường và tốt nghiệp Cử nhân Toán Lý Hóa tại Đại Học Khoa Học Hà Nội (ĐHKHHN) năm 1946. Ngay sau đó, Giáo Sư đã giảng dạy tại ĐHKHHN và bắt đầu công việc nghiên cứu, với công trình đầu tiên là Tiểu luận Cao học về ''Kết tinh picrat alcaloid'' và bảo vệ tiểu luận năm 1954 tại Hà Nội. Tiếp theo, với nỗ lực vượt bực, Giáo Sư đã chuẩn bị, qua các chứng chỉ đệ tam cấp về Quang phổ thực nghiệmHóa học lượng tử  tại ĐHKHSG và Vật lý hạt nhân ở Nguyên tử lực cuộc Saclay (Paris Sud). Năm 1960 Giáo Sư đã đệ trình luận án về “Hiện tượng phát huỳnh quang của CdI2(Pb) ” tại Đại học Rennes (Pháp) và được chấm đậu Tiến sĩ Quốc gia Vật lý, hạng tối danh dự với lời khen của ban giám khảo.



Giáo Sư hồi hương và phục vụ ngay tại ĐHKHSG từ năm 1960. Ngoài công việc giảng dạy Vật Lý, Giáo Sư đã đảm nhận các chức vụ Trưởng ban (khoa) Vật Lý, và Khoa trưởng (Hiệu trưởng) ĐHKHSG trong suốt thời gian 1965-1973. Trong thời gian này, Giáo Sư cũng là Trưởng ban Vật Lý trong Ủy ban Soạn thảo Danh từ khoa học.



Giáo Sư đã cho xuất bản nhiều tác phẩm và đăng nhiều bài báo trong các Tạp chí chuyên môn cũng như phổ thông.



Nhà khoa học có tầm nhìn xa

Tôi được thụ giáo với Giáo Sư Nguyễn Chung Tú từ niên khoá 1960-61, ngay sau khi Giáo Sư hồi hương. Là nhà khoa học có tầm nhìn xa, từ những năm 1960, Giáo Sư đã muốn đem chuyên môn của mình về đề tài phát huỳnh quang để nghiên cứu về sinh huỳnh quang (bioluminescence) của một số sinh vật hải sản. Đề tài này, sinh huỳnh quang, 20 năm sau, vào thập niên 1980, trào lưu thế giới mới ồ ạt đề cập đến. Ngày nay, ta biết các protein phát huỳnh quang màu lục (GFP : green fluorescent protein), phát biểu từ reporter gene mang cùng tên GFP, được dùng để đánh dấu các tế bào hoặc báo hiệu lộ trình trong việc chuyển vận “gene” hoặc thuốc vào trong tế bào. Và điều rất thú vị là người đã tìm ra GFP đầu tiên này là Giáo Sư người Nhật, Osamu Shimomura, được giải Nobel năm 2008, đã phát kiến trên con sứa vào năm 1965, nhưng thực hiện trong những điều kiện nghiên cứu của một phòng thí nghiệm tại Mỹ. Ngoài ra, tôi cũng còn nhớ khi mới được tuyển vào làm giảng nghiệm viên Ban Vật Lý, đã được Giáo Sư cho đề tài nghiên cứu bằng giao thoa ánh sáng trên các phim mỏng tạo nên do nhỏ những giọt dầu lan ra trên mặt nước. Trong những điều kiện khó khăn của ÐHKHSG lúc đó, tôi cũng thực hiện được một số thí nghiệm rồi phải khoanh tay. Nhưng mãi 20 năm sau này, khi ở ĐH Paris, khi chuyển hướng nghiên cứu sang Vật lý sinh học (Biophysique), tôi mới thấy là những liposome  đầu tiên chế tạo do nhà sinh hóa học Bangham thực hiện vào năm 1965, dựa trên những những hiểu biết về màng mỡ mỏng đơn phân tử lan trên mặt nước…



Nhớ lại những chuyện này, tuy không thực hiện được gì ở Saigon trước đó, nhưng đã càng làm cho tôi cảm thấy khâm phục tầm nhìn của Giáo Sư, mặc dù có hơi... đi trước thời đại, nhưng là một tầm nhìn xa và rộng. Thật thế, nếu thế kỷ 20 được coi là thế kỷ của những phát minh vật lý thì nhiều dấu hiệu cho thấy thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ về sinh học.  Ngav từ những năm 1965, Giáo Sư đã tham gia dạy các chứng chỉ Sinh lý Sinh hóa (với GS Mai Trần Ngọc Tiếng) và cộng tác cả với bên y khoa.



Tuy đã hồi hương năm 1960, Giáo Sư vẫn tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Giáo Sư vẫn giữ mối liên hệ với các nhà khoa học trên thế giới như Alfred Kastler (Nobel 1965), Maurice Françon… Và tuy trong hoàn cảnh giới hạn, Giáo Sư vẫn theo dõi thời sự khoa học, viết bài gửi đăng báo và xuất bản. Những quyển  như “Năng lượng mặt trời ” in năm 1980, “Những mũi nhọn trong Quang học hiện đại’’, 1996, là những thí dụ cụ thể.



Nhà giáo dục 

Đúng theo quan niệm của một người giảng dạy và nghiên cứu [enseignant-chercheur, teacher-researcher], Giáo Sư chẳng những cẩn trọng trong nghiên cứu khoa học, phương pháp giảng dạy của Giáo Sư cũng rất được sinh viên chú ý. Các giáo trình Quang học đã được sửa soạn cẩn thận và viết rất kỹ lưỡng. Giáo Sư dạy điều nào, chắc chắn điều đó, đúng như câu “tri vi tri'', rất là thanh liêm trí thức (honêteté intellectuelle). Cách giảng dạy của Giáo Sư cũng theo sát phương pháp sư phạm, rất dễ hiểu, nhưng luôn luôn chú trọng đến thực nghiệm trước lý thuyết. Các sinh viên theo ban Toán khi phải học thêm Vật lý đại cương, đã được mở mang rất nhiều trong khía cạnh này.



Ngoài chuyên môn giảng dạy khoa học ở bậc đại học, Giáo Sư cũng rất chú tâm đến các vấn đề giáo dục  trung học. Giáo Sư đã tham gia vào Hội đồng Cải tổ Chương trình Giáo dục để huấn luyện học sinh trước khi bước lên đại học.

Thêm vào đó, Giáo Sư còn chú trọng và đóng góp nhiều trong việc dùng chuyển ngữ tiếng Việt tại Đại học. Giáo Sư cũng đã là Trưởng ban Vật lý trong Ủy ban Soạn thảo Danh từ khoa học do Giáo Sư Lê Văn Thới làm Chủ tịch.

Ngoài việc giảng dạy theo giáo trình, Giáo Sư cũng còn chú trọng đến các ứng dụng của khoa học. Cho đến những năm cuối của cuộc đời, Giáo Sư vẫn còn mua báo Science et Vie dài hạn để đọc và tham khảo không ngừng nghỉ. Giáo Sư đã tham gia vào nhiều chương trình truyền hình để phổ biến kiến thức khoa học, góp phần nâng cao dân trí.

Năm 1994, Giáo Sư được tuyên dương là nhà giáo ưu tú.

Chú tâm về văn hoá

Giáo Sư Con người khoa học-nhà giáo nhưng không khô khan khắc khổ. Giáo Sư cũng chú tâm nhiều đến khía cạnh văn hóa. Giáo Sư vẫn thường diễn thuyết tại Trung Tâm Văn Hóa Pháp (Centre Culturel Français, sau này là Maison de la Francophonie). Cũng làm thơ, viết bài vào những dịp lễ như trong tiết tháng 7, mùa lễ Vu lan…

Tài quản trị và ngoại giao

Ngoài công việc giảng dạy và nghiên cứu, Giáo Sư còn đảm nhận chức vụ Khoa trưởng (Hiệu trưởng) ÐHKHSG trong những năm 1965-1973, Phó Hiệu trưởng Ðại Học Hùng Vương cùng với Giáo Sư Ngô Gia Hy. Tại Đại Học này, tôi đã có dịp được đến thăm Giáo Sư đúng vào ngày giỗ tổ Hùng Vương, năm 1997.

Con người, gương tận tuỵ, một người thày

Giáo Sư cũng ưa thích chơi cờ và có tính rất cẩn thận. Làm bất cứ việc gì, Giáo Sư cũng thận trọng cân nhắc, tính đến các hậu quả có thể xảy ra. Với những đức tính căn bản của một người theo khoa học, một nhà giáo tận tụy, thật không còn gì hơn khi nghĩ đến câu “Lương Sư Hưng Quốc’’ . Giáo Sư là một người thày, chữ “thày’’ đúng nghĩa trên mọi phương diện.

Qua bao nhiêu năm, Giáo Sư đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên trong lãnh vực vật lý. Nhiều học trò cũ của thày, sau này đã trở thành đồng nghiệp, nhưng vẫn luôn tưởng nhớ đến công ơn tận tụy giảng dạy của thày. Tình thày-trò được thể hiện qua sự tổ chức long trọng lễ mừng sinh nhật năm Giáo Sư 78 tuổi (2000), năm Giáo Sư 85 tuổi (2007), và mới đây, 2012, nhân dịp mừng thượng thọ Giáo Sư 90 tuổi, đơn giản hơn, nhưng ẫn tràn đày lòng quý mến.

Trong số sách chuyên môn đã xuất bản, có bốn quyển Giáo Sư ưng ý nhất là Giao thoa, Nhiễu xạ, Phân cực, và Phổ học. Vào mùa Thu năm 2013, chỉ một khoảng thời gian rất ngắn trước khi lâm bệnh , Giáo Sư đã giao cho người con trai thứ, anh Nguyễn Tấn Đức, cũng là giáo sư về Vật lý đóng thành trọn bộ để làm quà tặng nếu có ai đến thăm vào ngày sinh nhật thứ 91 của Giáo Sư (31-08-2013). Tiếc thay, vào ngày 25-8, một số cựu đồng nghiệp và sinh viên, những những tưởng cũng như năm 2012, đang sửa soạn để đến chúc mừng sinh nhật lần thứ 91 thì nhận được tin gia đình đã phải đưa Giáo Sư vào bịnh viện trong tình trạng sức khoẻ không mấy khả quan…

Và hôm nay

Và hôm nay, 12-01-2014, Giáo Sư đã đã ra đi, trong niềm kính yêu và tiếc thương vô vàn chẳng những của gia đình mà còn của nhiều cựu sinh viên và đồng sự nơi quê  nhà cũng như ở  hải ngoại. 

Paris, 12/01/2014
Cao Xuân An [Giáo Sư ]