Biển Vắng Chiều Xuân
Một mình biển vắng chiều rơi
Tình xanh lớp sóng la đà
Xuân sang đào cúc rạng ngời
Phương anh, tuyết trắng lạnh lùng
Tưởng như tình quẩn quanh đây
Chiều nay biển vắng riêng mình
Có còn không đấy ẩn tình ngày thơ?
Phạm Thị Minh-Hưng.
[ Thơ Cảm tác "Theo em tôi rụng la đà"]
( bấm vô hình , SVP . )
Thượng Đế ơi, Thiên Đường nơi nao!
Sao lòng ngun ngút mối u sầu
Thiên Đường có thật hay hư ảo
Ngẩn ngơ tìm kiếm khoảng trời cao.
Tìm đâu thấy nấc thang thứ nhất
Người bơ vơ trái đất hao mòn
Đời chật hẹp tình sầu ngăn cách
Nỗi cô đơn chất ngất nào vơi.
Thiên Đường gần gũi hay xa xôi
Làm sao trú ẩn nỗi đơn côi
Những chiều chầm chậm - Hoàng hôn tới
Vơ vẩn nhìn mây bay cuối trời.
Tìm đâu - Bóng Dáng - Thiên Đường ơi!
Lạc loài vô định, nắng tàn phai
Rưng rưng tê tái, lòng u uẩn
Còn gì không - Tháng năm dần vơi!...
Phạm Thị Minh-Hưng.
PS : Bài Thơ của nhà Thơ Phạm Thị Minh Hưng làm cho TQĐ chạnh lòng .
Bài Thơ rất độc đáo
Trân trọng kính chuyển vào các diển đàn
TQĐ lòng trong hình là 1 nhạc phẫm với các tài
danh trên thế giới để cho nhà thơ " Hảy Vửng Lòng Tin " vào Đấng Tối Cao.
Đây là bản chánh do George Harrison trình diển :
My sweet
lord
Hm, my lord
Hm, my lord
I really want to see you
Really want to be with you
Really want to see you lord
But it takes so long, my lord
My sweet lord
Hm, my lord
Hm, my lord
I really want to know you
Really want to go with you
Really want to show you lord
That it won't take long, my lord (hallelujah)
My sweet lord (hallelujah)
Hm, my lord (hallelujah)
My sweet lord (hallelujah)
I really want to see you
Really want to see you
Really want to see you, lord
Really want to see you, lord
Hm, my lord
Hm, my lord
I really want to see you
Really want to be with you
Really want to see you lord
But it takes so long, my lord
My sweet lord
Hm, my lord
Hm, my lord
I really want to know you
Really want to go with you
Really want to show you lord
That it won't take long, my lord (hallelujah)
My sweet lord (hallelujah)
Hm, my lord (hallelujah)
My sweet lord (hallelujah)
I really want to see you
Really want to see you
Really want to see you, lord
Really want to see you, lord
Mổi người đều có 1 trái tim và 1 tâm hồn
Nơi đó là Đắng Tối Cao
Nơi đó chính là Tôn Giáo
Nơi đó chính là Thiên Đàng
Nơi đó củng chính là Địa Ngục .
Đừng tìm đâu xa xôi
Thiên Đàng trong Trái
Tim và Tâm Hồn của chính mình .
**
MẸ CHỒNG TÔI
YTH-
NGUYỄN THY TỨ
Anh thương, Cha
Mẹ không thương,
Ví như nước chảy,
đường mương chưa đào.
(Ca dao)
May
mắn cho chúng tôi, nước chảy đến đâu, nơi đó đường mương đã được đào sẵn. Sau
khi ra trường, anh về quê Tuy Phước, Bình Định, xin Cha Mẹ cho phép cưới tôi. Cha anh dễ
dãi, chấp thuận ngay. Mẹ anh bảo: - Con thiệt thà, lấy vợ Bắc, bị ăn hiếp chết!
Nói
vậy, nhưng Mẹ anh rất vui. Lâu nay, Mẹ vẫn luôn thúc giục, mong mỏi cho con trai út của
mình, người con được sinh ra lúc Mẹ 28 tuổi, Mẹ rất mực yêu thương, sớm yên bề
gia thất. Thế là những lần liên lạc, thăm viếng giữa hai gia đình, từ buổi sơ
giao, nhanh chóng trở nên thân tình hơn. “Nghi thức Thăm nhà”, được diễn ra
trong tuần lễ sau đó.
Trước khi vào Sài Gòn chọn nhiệm
sở, anh đến chào từ biệt Bố Mẹ tôi. Tôi đưa anh xem quyển sổ, giấy pelure nhiều
màu, dành để chép thơ. Trang đầu, tôi ghi sẵn 4 câu:
“Công danh, chàng hỡi tham gì,
Về đây cho tuổi xuân thì có nhau
Tóc
xanh, mấy chốc bạc đầu
Duyên
tình hờ hững, dạ sầu cô miên”!
Anh
lấy cây viết từ túi áo ngực, ghi tiếp, nét chữ hơi nghiêng nghiêng:
“Công danh xin trả cho đời
Với cung với kiếm cho người đấu
tranh
Về đây, về đây, đã đành
Chỉ xin nương tử, còn xanh mái đầu.”
Anh
chọn nhiệm sở là phi đoàn 223 Biên hòa. Những bức tình thư, như con thoi, liên
tục qua lại. Anh mới ra trường, làm phi công phụ trong những chuyến bay trực
thăng võ trang, yểm trợ tác chiến cho mặt trận bên kia biên giới Campuchia. Chiến
trường đang hồi sôi động. Gần đến
“Ngày
ước hẹn”, tôi nhận bức điện tín, do bác cai trường đem đến lớp, sau giờ ra
chơi: “Anh không về được, cứ tiến hành lễ Vấn Danh”.
Đây
là Trời muốn gửi thử thách đầu tiên, cho cuộc tình “Người yêu là lính”! Biết
sao, khi hai bên Cha Mẹ đã thỏa thuận rồi! Tôi đành “xưng tên” trong một lễ Vấn
Danh thiếu chú rể!
Bốn
tháng sau, một bưu kiện lớn đầy thiệp cưới, anh gởi về địa chỉ nhà trường. Tôi
trao số thiệp nhà trai. Phần còn lại, tôi chần chừ chưa muốn gởi, dù Bố Mẹ có
nhắc nhở. Mẹ chồng tương lai, ở quê xuống, kêu tôi đi sắm nữ trang. Mẹ thật thà,
chất phác bảo:
-Nếu
Hân không về được, vẫn cử hành đám cưới như dự định. Cưới xong, Mẹ sẽ đưa con vào Biên Hòa. Tôi bật
khóc:
- Thưa Bác, nếu anh Hân không có mặt, con sẽ
làm đám cưới với ai?
Mẹ
đành về không, kể lại với cả nhà: -Thấy con Thơ khóc, tôi chẳng nỡ ép nữa!
Một
tuần trước ngày cưới, anh về, tới trường đón tôi, nửa thương, nửa trách: - Đến nỗi gì, em
phải héo hon như thế? Chắc chắn, anh phải có mặt, để làm chú rể chứ? Rồi Anh hối
hả đem thiệp đi mời, đưa tôi đi lấy áo cưới và chọn nữ trang…Bộ complet màu mận,
anh may sẵn trong ấy, đã đem về. Bao nhiêu công việc còn lại, phải…“tốc hành”
lo cho kịp ngày cưới, hỏi, nhập một. (Lính mà)!
Chiều
thứ bảy, lễ Hôn phối ở Thánh đường xong, ra nhà hàng đãi tiệc. Qua Chủ nhật, rước
dâu về quê. Hai cô bạn cùng trường, làm phụ dâu cho tôi. Chú rể…solo, không tìm
ra phụ rể! Thật thiếu sót, lấy ai tiếp đón hai cô dâu phụ?
Đám
rước dâu đi trên con đường quanh co, men bờ rào duối, bên dưới là những thửa ruộng
“lúa con gái” xanh bát ngát. Rất hữu tình! Sau nghi thức lễ gia tiên và ra mắt
họ hàng. Ăn uống qua loa, chúng tôi (hai
cô dâu phụ và cô dâu), lẻn ra vườn. Thích thú, trầm trồ trước những chùm xoài đụng
đất, nằm la liệt như bày heo con. Trái chùm ruột chi chít, trĩu cành. Những quày
dừa căng bóng, có đến hàng trăm trái…Mãi đến lúc có người gọi, tiễn nhà gái ra
về, ba đứa chúng tôi vội vã chạy vào. (Đoảng ghê chưa)! Có phải ở lại làm dâu
đâu, có phải xa lìa Bố Mẹ ngay đâu, cớ gì phải buồn rầu, khóc lóc? Xế chiều sẽ
trở lại Quy nhơn, về tạm khách sạn 3 ngày, Cha Mẹ chồng không dám cho ở lại ban
đêm, sợ không được an toàn cho người con...“giặc lái”!
Đám
cưới được một tuần, anh phải trở lại đơn vị. Tôi tiếp tục đến trường. Nhớ
thương ngập tràn trên những trang thư:
“Chim lìa cành thương cây nhớ cội,
Người xa người tội lắm Trời ơi!
Chẳng thà không biết thì thôi,
Biết nhau, mỗi đứa một nơi cũng
buồn”!
(Ca
dao)
Đâu
chỉ là “cũng buồn”? Buồn nẫu ruột, nẫu gan ra đấy chứ! Anh bảo: Lúc chưa cưới
em, anh sống không lo nghĩ nhiều. Bây giờ đã làm chồng, mỗi lần đi bay, anh thường
băn khoăn, lo lắng: Nếu lỡ có một ngày, anh đi, không trở lại, tội em biết mấy!
Anh yêu thương em, nhủ mình hết sức cẩn trọng và dâng lời nguyện cầu mỗi sáng
đi bay. Mong sao:
“Tôi sẽ bình yên trở về với đất
Có người yêu dù xa cách muôn
trùng
Có Mẹ già bằng nước mắt rưng rung
Đón những người con giang hồ đãng
tử”…
(Thơ
Hoàng Nguyên)
Cô
bạn còn độc thân, quê Quảng Trị, dạy cùng trường, hỏi tôi: - Tình yêu và hôn
nhân khác nhau thế nào? Tôi giỡn giỡn, đáp liền, không suy nghĩ: - Tình yêu là
một ly kem bảy màu. Hôn nhân như một tô bún bò Huế cay nồng! Rõ thật có “tâm hồn…
ăn uống”!
Mỗi
chiều thứ bảy, tôi đón xe Lam về Tuy Phước thăm Cha Mẹ chồng, cách nhà Bố Mẹ
tôi chừng 11km. Tôi thường ở lại một đêm, sáng hôm sau, trở về Quy nhơn. (Chiếc
gối nhà Mẹ chồng rất cao, làm tôi khó ngủ, hay là còn một nguyên do nào khác)?
Giỏ quà mang đi, đem về, lúc nào cũng nặng trĩu. Mẹ chồng hái cho đủ các loại
trái cây trong vườn: xoài, mận, ớt, cà chua, cà dĩa, rau ngót…không bao giờ quên, cắt
cho một bó huệ sẻ thơm ngát, trồng trong khoảnh sân trước nhà.
Khi
nghe tôi có thai, Mẹ chồng vui lắm. Nhưng anh Hai bảo: -Tụi bay có con chi sớm
vậy? Làm tôi hơi buồn lòng! Có thai lúc nào, có biết đâu! “Thời đại” chúng tôi
hồi đó, khờ lắm! Sống tự nhiên, chẳng hề “kế hoạch” hay toan tính gì đâu!
Mẹ chồng dặn tôi bớt đi lại. Mỗi tuần, Mẹ hoặc
Cha chồng xuống thăm, đều đem cho chùm ruột rim, dừa, mận, hay ổi vườn tươi
giòn, chua chua, ngọt ngọt. Tuy vậy, tôi còn ăn rất nhiều me, hàng ký me, mua,
lúc dạy học về, đi ngang qua chợ.
Nghỉ
hè, hai bên Cha Mẹ vui lòng cho tôi vào Biên Hòa, sống với anh trong cư xá độc
thân của phi đoàn. Sau, chúng tôi thuê nhà, dọn ra ngoài ở. Sáng sớm, tôi chuẩn
bị món điểm tâm cho anh. Tiễn anh đi bay, tôi ở nhà, tỉ mỉ cắt may đồ em bé. Vừa
làm vừa thầm thĩ cầu nguyện, mong anh được bình an. Áo, mũ, bao tay, giày…chiếc
nào cũng thêu hoa lá, chim chóc, theo nguyên bộ. Những cái móc be bé treo đầy
nhà. Tôi may, thêu, treo lên ngắm nghía, chờ chiều về, khoe với chồng. Có những
lần anh về muộn, tôi bồn chồn, đứng ngồi không yên. Bảo anh, anh cười, xòe bàn
tay cho tôi xem: - Em đừng lo! Số anh thọ lắm, đường “mạng đạo đôi” rõ nét như
thế này cơ mà!
Tôi
viết thư, kể về những ngày tháng “ra riêng”. Hai bên gia đình đều rất vui.
Thấm
thoắt, gần tới ngày sinh, Mẹ chồng và người anh thứ bốn vào thăm. Trước khi đi,
Mẹ chồng dặn dò Mẹ ruột của tôi: - Chị yên tâm, nếu con Thơ sanh, tôi ở lại
nuôi, nếu chưa, tôi đón nó về cho chị! Mẹ tôi đang bệnh, chỉ gởi theo cho một
món tiền.
Không
mua được vé máy bay, vì thai nhi đã lớn. Chúng tôi đáp xe đò về quê. Xe không
chạy suốt, nghỉ lại Nha Trang. Nửa đêm, tôi đau bụng lâm râm. Nghĩ là đi đường,
ăn uống không cẩn thận, tôi lặng lẽ lấy dầu ra thoa. Nhưng không ổn, cơn đau trở
lại từng hồi, đều đặn. Tôi đánh thức Mẹ chồng, đang ngủ cùng giường:
-
Mẹ ơi! Con đau bụng nãy giờ mấy chặp rồi!
Mẹ
hốt hoảng, vùng dậy, bới lại mái tóc dài, giục giã:
-
Đi con, đi tới nhà bảo sanh khám thôi! Cha con Khánh, mau kêu cyclo cho Mẹ!
Bác
sĩ ở bảo sanh viện Hồng Phúc nói: - Có dấu hiệu sanh. Đã mở 2 phân. Nhưng con
so, có lẽ chuyển bụng hơi lâu!
Trở
về khách sạn, anh Bốn nói: - Em muốn ở, anh lo chuyện ở. Muốn về, anh lo chuyện
về. Thực tình, việc này, anh không dám quyết định! Mẹ chồng cũng chờ ý kiến của
tôi. Tôi “điếc đặc”, đâu biết sợ súng! Chỉ nghĩ đơn giản: Đã chủ tâm về quê, chẳng
lẽ lại sinh con…giữa đường! Nên trả lời nhanh chóng: - Xin anh lo cho em về!
Thế
là anh đi trả lại vé, bao một chiếc xe 4 chỗ ngồi, về Quy Nhơn. (Giá tiền năm
71, tôi nhớ, anh phải trả 7.200
đồng). Mờ sáng, xe khởi hành. Anh Bốn ngồi bên tài xế. Mẹ chồng và tôi ngồi
băng sau. Tôi mang bầu con so, vốn người “mình dây”, nên bụng rất gọn. Áo đầm
dài, bên ngoài, khoác áo len đen. Nét mặt tư lự, người ngoài sẽ nghĩ là tôi bị ốm,
không ai ngờ tôi đang chuyển bụng sinh con! Bác tài nếu biết, chắc chẳng dám chở
một hành khách đặc biệt như thế!
Mẹ
chồng kể cho tôi nghe, hết chuyện này sang chuyện khác, Mẹ mong tôi quên cơn
đau và hy vọng, sẽ về đến Quy Nhơn, suôn sẻ.
10
giờ 30, xe vào tới sân nhà Bố Mẹ tôi. Người chị ruột, là Nữ trợ tá Xã hội, đang
ở đấy. Tôi vẫn đau bụng ngằm ngằm, nên không vào nhà, chị vội chở tôi tới bệnh
viện Thánh Gia. Nhập viện xong, Mẹ chồng “bàn giao” cho Mẹ tôi, về quê. Hẹn hôm
sau, sẽ xuống thăm.
Tôi
mệt rũ người, nước mắt lặng lẽ ứa ra! Mẹ tôi nài ép: -Con cố ăn uống một chút để
lấy sức. Nể Mẹ, tôi chỉ nếm qua vài miếng. Tôi nằm, ngước nhìn tượng Chúa chịu
nạn, treo trên tường: - Chúa
ơi! Sự sống thật huyền nhiệm, nhưng vẫn không thiếu đớn đau!
Những
cơn đau xé thịt! Bao nhiêu nỗ lực dồn vào việc luyện tập bài thể dục: “Đẻ không
đau”, từ lúc mới có thai, hình như chẳng giúp gì cho tôi! Cũng may, cơn đau ngắt
quãng, nếu kéo dài liên tục, làm sao tôi chịu nổi! Vào phòng sanh, tôi mệt lả,
có lẽ do chuyến đi đường xa, kém ăn, thiếu ngủ, lại lo buồn vì cảnh: “Đàn ông đi biển có đôi. Đàn bà đi biển, mồ
côi một mình”! Nên càng yếu ớt thêm! Hết ca trực này, đổi ca trực
khác, tôi vẫn chưa sanh. Bác sĩ chờ, cô y tá khích lệ: -Cố rặn đi! Đầu tóc em
bé đen thùi đây rồi! Tôi năn nỉ: -Em không còn sức lực nào nữa! Xin Bác sĩ cứ mổ
xẻ thế nào tùy ý!
Bác
sĩ cho chích “thuốc giục”. Thời gian nặng nề trôi…
Giờ
phút mong đợi nhất đã đến: 21 giờ 30 phút, bé trai chào đời, khóc rất to tiếng!
Cô y tá bế cháu đi tắm. Tôi ngoái nhìn theo: đầu bé dài, trợt lớt, chẳng thấy
nhúm tóc đen nào!
Ra
khỏi phòng sanh, tôi dặn Mẹ,
gởi điện tín cho chồng tôi: “Thơ sanh bé Duy, nặng 2.7kg, mẹ tròn, con vuông”.
Chúng tôi đã chọn sẵn hai tên, một trai, một gái, nghe tên, anh sẽ hiểu ngay!
Gia
đình nhà chồng rất quý con trai. Có lẽ vì lâu nay, các chị dâu sanh con gái hơi
nhiều! Biết vậy, khi Cha chồng xuống nhà hỏi thăm. Anh tôi trêu Cụ: - Thơ sanh
con gái rồi Bác ạ!
Cha
thở dài, ngồi phịch xuống ghế. May, cháu Phương Hiền 5 tuổi, nhanh nhảu:
-
Không phải đâu Ông ơi! Cô Thơ sanh con trai mà!
Cha
bật cười ha hả: - “Zậy na”! Con em qua mặt con chị rồi! (Chả là chị dâu thứ tư,
lấy chồng 10 năm, chỉ sanh hai cô con gái).
Sáng
hôm sau, Mẹ chồng vào bệnh viện, xem mặt cháu nội út. Cô y tá bồng cháu, trao
cho Bà nội, lên tiếng “mắng vốn”:
-
Cháu cụ la to quá trời, làm các trẻ khác giựt mình, khóc theo!
Mẹ chồng ôm cháu, hôn lấy hôn để, ngồi xuống
giường, bảo tôi:
-
Con đừng Rửa Tội, để cho theo bên Nội một đứa!
Tôi
nắm bàn tay Mẹ, dịu dàng: - Mẹ đừng lo! Con sẽ dạy dỗ cháu, hết lòng kính nhớ Tổ
Tiên, như lòng Mẹ mong ước!
Nét
mặt Mẹ vẫn bình an: - Mẹ xuống thăm, đem cho con chục trứng gà so. Có giò heo,
đu đủ xanh hái trong vườn. Con nói Bà ngoại cháu hầm, ăn cho có sữa!
-
Con cám ơn Mẹ đã hết lòng thương!
Đầy
tháng con, chồng tôi mới xin được phép “Vợ sanh”, trở về. Người chị Nữ trợ tá,
lái xe, đưa chúng tôi về quê. Qua cửa Lý Môn (dinh cụ Đào Tấn). Xe bị lún sình,
phải lấy mấy tấm ván trong bộ ngựa lót đường, đi vào lối vườn sau. Cả nhà rộn
rã tiếng cười. Ai cũng giành bế cháu, ngắm kỹ từ mắt, mũi, miệng, trán, cằm,
xem nó giống ai? Các chị dâu và chị chồng la tôi:
-
Sao không chịu mang vớ, trùm khăn, nhét bông gòn vào tai?
Anh
Bốn cũng cằn nhằn: - Vào nhà, sao biết người nào sanh, người nào không?
Tôi
cười trừ: -Em sinh cả tháng rồi! Xưa, ở
quê Bắc, Mẹ em mới sinh 3 ngày, đã phải lội xuống ruộng, vớt tranh cho Bố em lợp
nhà, vì bão đánh bung hết mái nữa kìa!
-
Ôi, lúc khó nghèo mới đành phải chịu chớ?
-
Ừ, cứ ỷ sức đi em, mai mốt già sẽ biết!
Sau
năm ngày vui chơi ở quê nhà, thật êm đềm, hạnh phúc! Chúng tôi phải xuống Quy
Nhơn, để anh trở lại đơn vị. Gặp kỳ mưa lụt, nước lũ tràn lên, phủ lấp luôn con
đường nhỏ trước nhà. Một đoàn người mang, xách, đưa chúng tôi lên quốc lộ. Mẹ
chồng tôi ẵm cháu nội, cuộn tròn trong chiếc khăn bông to tướng. Mẹ giục con
trai út:
-Cõng
vợ con lên, đừng để chân nó giẫm nước bạc!
Tôi
ôm cổ chồng, nối tiếp đoàn rồng rắn lên đường, lòng vui như trẻ thơ, ghé vào
tai anh:
“Bồng bồng cõng chồng đi chơi,
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng”…
(Ca dao)
Anh nhún một cái: - Rơi nè! Tôi la lên: - Chết
em rồi!
Mẹ chồng quay lại: - Sao đó?
Anh tỉnh bơ: - Dạ, con bước hụt! Không sao mẹ ạ!
-
Phải cẩn thận đấy!
Anh
về phi đoàn, tiếp tục những chuyến bay hành quân.Tôi còn đươc nghỉ bảo sản thêm
1 tháng. Hết phép, Bố tôi đưa hai mẹ con vào sau. Mẹ chồng nài tôi, để cháu lại
cho Mẹ nuôi. Tôi xin Mẹ, cho cháu cùng đi.
Tôi
dạy tại Biên Hòa một niên khóa. Vừa lúc phi trường Phù Cát thành lập phi đội trực
thăng võ trang. Anh xin chuyển về để gần Cha Mẹ. Tôi, thêm lần nữa, được quyền
ưu tiên 1, về theo! Dạy tại trường Nhơn Thành, Gò Găng.
Chúng
tôi có thêm một bé gái. Hàng ngày, anh đi bay, phần tôi, đèo bòng, chở hai con
nhỏ và cô bé giúp việc 13 tuổi, cùng đến trường, với một giỏ, nào sữa, nào
khăn, nào tã lót! Thuở trước, đám học trò quý mến các cô giáo độc thân chúng
tôi lắm. Nay, đến lượt tôi, cũng đành chịu mang tiếng: “Con cô đau, cô nghỉ. Chồng
cô đau, cô cũng nghỉ! Rồi khi cô đau nữa, khỏi nói luôn”! Nhưng hoàn cảnh bắt
buộc. Chúng tôi nào có lỗi gì? Thực sự, Trời thương, chồng con tôi có sức khỏe
dồi dào. Chỉ có điều, tôi không thể dạy tốt như trước!
Bỗng,
đến một ngày “Đất bằng dậy sóng”: Cuối tháng 4/75. Chúng tôi phải di tản vào
Sài gòn, trong lúc mang bầu người con thứ ba, đã sanh cháu ở bệnh viện Vì Dân,
gần nhà. Mẹ chồng thúc giục con cháu đi, nhưng Mẹ nhất quyết bám trụ ở lại mảnh
đất quê hương! Sau 30/4, theo đề nghị của tôi, anh đăng ký tại Sài Gòn, chờ “học
tập cải tạo”. Bố tôi, lãnh trách nhiệm đưa con gái và 3 đứa cháu ngoại, về quê
nội nương náu! Trước khi trở lại Sài Gòn, lo toan việc an cư lạc nghiệp, cho 4
tiểu gia đình nữa, các gia trưởng đều vướng mắc trong thành phần “Ngụy quân, ngụy
quyền”!
Cha
Mẹ chồng mừng mừng, tủi tủi, ra tận ngõ đón chúng tôi. Cũng trên con đường thơ
mộng này, 5 năm trước, Cha Mẹ ra “Rước dâu”. Bây giờ là một…đám tàn quân, sa cơ
thất thế trở về. Còn tủi buồn, cay đắng nào hơn!
Ngoài
ba đứa con tôi, Cha Mẹ chồng còn bỏ công tìm kiếm, gom về 3 cháu nội nữa, con
người anh thứ sáu. Anh tử nạn máy bay L19 tại đèo Cù Mông năm 72. Chị dâu theo
chồng mới, đi nước ngoài, bỏ lại các con cho người Mẹ kế, ở Nha Trang. Tất cả 6
đứa trẻ thơ: Đứa lớn nhất 5 tuổi, nhỏ nhất vừa tròn 2 tháng! Cô, Dì, Chú, Bác,
ngỏ ý muốn nuôi giùm các cháu mồ côi. Mẹ không thuận, nói:
-
Chừng nào tôi chết hẵng hay! Còn sống, tôi muốn bao bọc hết. Vì Cô yêu, biết Dượng
có thương? Chú xót, biết Thím có độ lượng?
Những
ngày mới về quê, chiều chiều, cơm nước xong, tôi bế đứa con trai út, dắt theo một
đoàn
“rồng
rồng” vừa con, vừa cháu, thơ thẩn trên con đường hẹp, men theo bờ rào duối, ra
quốc lộ. Ngồi trên thảm cỏ bên vệ đường, nhìn ra cánh đồng lúa mênh mông. Lòng
trĩu buồn: Tương lai, rồi sẽ đi về đâu?
Cả
thôn làng, chắc ai ai cũng phải mủi lòng, ái ngại cho hoàn cảnh khó khăn, nặng
gánh của Cha
Mẹ
chồng tôi lúc đó: Hai mái đầu bạc, phải cưu mang một đám trẻ còn trứng nước.
Con dâu lại quá…liễu yếu, đào tơ!
Từ
bé đến giờ, quen sống ở thành phố, nay về chốn thôn quê, không điện, thiếu tiện
nghi, cùng với cõi lòng cay đắng, xót xa nỗi niềm ly tán. Tôi đau buồn quá! Nửa
đêm thức giấc, tôi bàng hoàng lo sợ cho cảnh ngộ đời mình. Nhưng rồi, nỗi lo
toan cơm áo đời thường, tất bật với đám trẻ con. Tôi thật sự không còn thời giờ
để…thở! Nhờ vậy, tôi đỡ bớt nghĩ ngợi!
Hàng
ngày, Cha Mẹ chồng lo việc ruộng vườn. Tôi quán xuyến việc nhà: Chăm sóc đàn
con, cháu, lo cơm nước cho cả nhà, cùng rau cám cho bầy heo nái! Tôi tập quen với
việc nấu cơm bằng rơm, rạ. Xách nước từ hố ruộng trước nhà lên, tưới qua rổ xảo
cho rau muống, rau cải, xà lách, hành ngò… Đôi khi con khóc, tôi vừa bế con, vừa
xách nước để nấu cơm: Tay trái bế con, tay phải bỏ gầu xuống giếng, vục đầy nước.
Kéo dây gầu lên, chừng một sải. Tôi đưa chân, đạp dây gầu vào thành giếng. Cúi
xuống, đưa tay, nắm tiếp phần dây dưới, kéo lên. Cứ thế, cho tới khi cầm được
thanh gỗ ở miệng gàu. Cũng may, giếng chỉ sâu độ vài mét.
Xế
chiều, một tay tôi bế con nhỏ, vừa cầm “đèn hội vịt”. Tay kia xách lu, đã đổ sẵn:
tấm, cám, rau, nước, có thêm một nhúm muối. Hai mẹ con ra hố trấu, nhen lửa, hầm
cháo heo. Một lần, cháu loay hoay thế nào, cúi xuống, gặp lúc ngọn đèn bùng
lên, bị phỏng nhẹ một bên má! Phải chi, kiếm được gỗ, đóng một cái “cũi”. Tôi bỏ
con vào đó, làm việc cho an toàn. Nhà vắng bóng người đàn ông, là như thế đó!
Mỗi
5 ngày một lần, tôi giúp Mẹ chồng, chuẩn bị gánh hàng bán phiên chợ Huyện: Lột
vỏ những trái dừa khô, cắt, bó rau muống, hái ổi, mận, cà chua, cà dĩa…Có khi,
cả những trái bí đỏ, bỏ gần kín lòng thúng. Mẹ chồng đi chợ sớm lắm. Mẹ gánh một
gánh. Những thứ nặng, tôi đạp xe, chở lên sau! Tôi còn trèo lên mái nhà, thay một
miếng ngói, bằng tấm kính, cho gian nhà ăn được sáng sủa hơn. Việc gì Mẹ chồng
hỏi tới, hầu như tôi đều có thể trả lời: Con đã làm xong cả rồi! Mẹ rất hài
lòng. Mẹ thường bảo với mọi người: Tôi ở ngoài đồng chỉ có một việc. Con Thơ ở
nhà, trăm thứ viêc không tên!
Hôm
thím Bảy Đính sang thăm, Mẹ chồng tôi bảo: Có mặt Thím đây! Xưa rày, ai cũng
nói là tôi “sắc dâu”. Nhưng Thím coi: Mẹ con tôi sống với nhau, trong hoàn cảnh
khó khăn là vậy. Không hề có chút phiền lòng nào! Tôi thương nó, nó biết ý tôi,
kính nể tôi. Thế là gia đình êm ấm!
Những
buổi tối thư thả, Mẹ
thường têm sẵn một mớ trầu. Đếm lại từng đôi, cẩn thận.Tôi không hỏi, nhưng biết
chắc là nhiều lắm. Dễ đến 20 miếng. Mẹ đi qua các nhà hàng xóm chơi. Ghé chỗ những
người đi buôn ở La Hai, Phước Lãnh. Mua về cả thúng củ mì, củ khoai, đường
táng. Có khi, Mẹ ủ theo một cái trứng gà nở muộn trong túi áo. Đám trẻ hỏi:
-
Tiếng gà con ở đâu vậy bác Hai?
Mẹ
tỉnh queo: - Gà qué, heo cộ gì đâu?
Xưa
nay, tôi quanh quẩn làm việc nhà, rất sợ phải lội xuống bùn. Nhưng, lẽ nào phó
mặc việc nặng cho Cha Mẹ già? Dần dà, các con cháu khôn lớn. Tôi xin đi theo, tập
tành nghề nông! Ngày xưa, ông Thần Nông, hướng dẫn cho dân Việt làm ruộng. Nay,
tôi học công việc đồng áng từ Cha Mẹ chồng mình!
Lần
đầu “xuất quân”, là buổi đi tát nước gàu sòng, nhổ 2 sào đậu phộng với Cha, ở Miễu Tây. Người trong thôn
kháo nhau:
-
Xưa rày, tui vẫn nghĩ: Bác Hai thương chỉ nên nói vậy, chớ người mảnh dẻ, yếu ớt
cỡ đó, làm được gì? Hôm
nay, thấy tận mắt, chỉ tát nước, nhổ đỗ với bác trai, thật đáng khen! (Họ đâu
biết, tát nước gàu sòng, nhất là gặp được sòng thấp, cả một sự nhịp nhàng, uyển
chuyển, là niềm vui thích của tôi. Tát nước hoài, không thấy mệt)! Đỗ nhổ xong, gom về sân nhà. Tối, bà con đem
đèn đến lặt củ, làm rẽ. Vừa
làm, vừa chuyện trò râm ran. Dây lạc loại ra, đem chặt khúc, ủ phân rất tốt.
Tôi
theo Mẹ đi nhổ cỏ. Chắc chắn, đã có khi tôi nhổ lầm cây lúa! Ráng cấy lại, bằng
không, sẽ vo tròn, lấy chân nhận, giấu xuống bùn! Hôm cắt đám ruộng Vũng trước
nhà. Lom khom chán, tôi mỏi lưng, ngồi cắt, lết tới, đi như kiểu con vịt, lúc tập thể dục hồi còn bé! Cha chồng
bảo: -Mỏi lưng, con cứ ngồi. Cha cũng vậy! Chỉ Mẹ chồng mới…kiên cường đứng lom
khom suốt buổi! Tôi quơ liềm, móc một nắm cây lúa. Bẻ gập xuống, giựt xoẹt một
cái. Chỉ sợ trúng tay! Xoẹt xoẹt, ngọt sớt, cũng lạnh cả người! Rất may! “Thánh
nhân đãi kẻ khù khờ”! Suốt mùa cắt, tôi được toàn vẹn. Trong lúc “thợ gặt chuyên nghiệp”, vẫn có người bị đứt tay!
Sợ nhất, là khi cắt lúa ruộng nước. Thoáng nhìn thấy bóng
dáng con đỉa, tôi đã xanh mặt! Mẹ chồng trấn an: - Đừng sợ, con cứ đi bên cạnh Mẹ, Mẹ lấy
bã trầu xức cho, đỉa rớt ra liền à!
-
Ối! Mẹ ơi! Chờ nó cắn rồi, mới được Mẹ xức thuốc, chắc con chết mất!
Lần cắt lúa ở đám ruộng Miễu, vừa thấy con đỉa ngoe nguẩy
bơi đến. Tôi quá sợ, hét lên, quăng liềm chạy. May mắn, Mẹ đã tìm lại được cái liềm dưới bùn, nếu không, phiền to rồi. Từ đó, Mẹ chỉ cho tôi theo cắt lúa ruộng khô thôi!
Trong niềm chờ đợi chồng đi học tập trở về. Tôi vẫn yên
phận với nếp sống nhà quê. Đã tận mắt thấy, đã góp bàn tay trong công việc gieo
trồng, thấm thía câu ca:
“Ai ơi
bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”!
Nhưng, Cha Mẹ chồng bảo, thuở thanh bình, việc làm ruộng cũng thư thả lắm. Gieo cấy
xong, chờ lúa chín, thời gian đó rất nhàn nhã. Ngày ngày ra thăm đồng,
chỉ thỉnh
thoảng tháo nước,
vãi phân, chờ mùa gặt. Việc đó nhẹ nhàng, mình người phụ nữ cũng làm được.
Trong cảnh khó khăn, chật vật,
nhưng không phiên
chợ nào, Mẹ quên mua quà cho các cháu. Về đến nhà, vừa đặt gánh xuống, Mẹ lấy ra bọc “kẹo cà”, có khi là một mớ củ môn đã nấu
chín, ăn với đường táng. Những bó đậu nành nho nhỏ luộc
sẵn, hoặc những
trái bắp nếp, nấu đổ nhựa sền sệt...Mẹ chia đều 6 phần, mỗi đứa cháu tới lãnh một
phần quà. Những lần nấu chè đặc, hay bánh canh ngọt, Mẹ đều chia như thế. Mẹ không nấu ít đâu, nguyên một xửng to, múc ra chén, xếp
thẳng hàng, mỗi hàng 4,5 chén. Ăn chán chê, mãi hôm sau hãy còn. Lâu lâu, chúng thèm ăn bánh xèo, Mẹ bảo:
-
Hỏi thím Bảy bay, có chịu ngồi lò, đúc hay không?
Mẹ chọn gạo, ngâm, xay bột, đăng bột, pha bột bằng nước nóng, với lá hành xắt nhỏ và bột nghệ. Trong khi tôi lo ướp thịt,
tôm và nấm
(các cháu tìm quanh chân đống rơm). Khi đã sẵn sàng lò than và hai khuôn đúc. Mẹ chồng tôi
điều khiển, cho từng đôi, các cháu vào ăn, ăn nóng cho ngon! Bắt đầu từ cặp bé
nhất, được
ăn trước. Cha thích ăn bánh xèo guậy (chỉ vừa chín tới, không để se mặt). Mẹ ăn
kèm với rau sống, gồm cây cải non, sà lách, lá hành, lá tỏi ...chấm nước ruốc. Ăn xong, Mẹ ngồi lò, đúc bánh cho tôi. Quả thật sau này, tôi đã đổ bánh xèo nhiều lần, cũng như
đi ăn trong
hàng quán. Chưa bao giờ được ăn lại, những cái bánh xèo ngon như ngày ấy:
bột dẻo nhưng ráo. Khi đổ bột vào khuôn, mặt bánh rỗ đều những bóng nhỏ, khắp lượt. Không bao giờ bột bị chai, bị lì
! Cả nhà ăn hết
lượt, tôi còn đúc thêm một ít bánh xèo dòn (trở cả hai mặt).
Đổ cho hết
thau bột, để
sáng mai, ăn bánh xèo nguội.
Cuộc sống tạm ổn định. Chỉ còn khắc khoải một niềm đợi
trông, người Cha, người chồng, người con trở về đoàn tụ. Nhưng đã mỏi mòn,
1 năm, 2
năm, 3 năm...không biết đến bao giờ? Đã mấy mùa xoài cát,
Mẹ vẫn để
dành những trái ngon trên cây, đợi người con út. Mặc gió táp, sương sa, chim,
dơi gặm khoét, vẫn chưa muốn hái xuống. Phần tôi, mỗi lần nghe tiếng chó sủa,
hay tiếng xe
honda ngừng trước ngõ, tôi đều đưa mắt nhìn ra, với niềm hy vọng.
Suốt một ngày chờ chực đổi tiền,
Cha chồng tôi
đuối sức, bị té xe trên đường về. Cha đổ bệnh, nằm luôn từ hôm ấy! Cô y tá đến chuyền nước biển, Cha
không cho!
Tôi nài nỉ:- Cha ráng chịu khó chữa cho mau khá, con đã viết thư vào trại cải tạo, xin phép cho anh Hân về
thăm Cha, Cha
lặng lẽ, giơ cánh tay ra, cho y tá tìm “ven”. Nhưng, chẳng chờ nổi nữa, sau một
tháng ngã bệnh, Cha chồng tôi đã qua đời. Cha than thở trong cơn hấp
hối:
-“Trời ơi! Con người ta về hết, sao- con- tôi- chưa- về”?
Tôi báo tin cho chồng, đang cải tạo ở Gia Rây, cùng với một tờ đơn, đã xin thị thực ở xã, về hoàn cảnh
gia đình. Lấy tính mạng của 8 người trong nhà, đứng ra bảo lãnh cho
chồng về, giúp tôi nuôi dạy đàn con cháu và phụng dưỡng mẹ già. Nhưng không ai
thèm trả lời, trả vốn gì cho tôi!
Sau khi Cha chồng mất, những lần tôi đi dự lễ ở nhà thờ về, Mẹ chồng hỏi:- Con đi nhà thờ, có cầu nguyện cho Cha hay không?
-Người Công Giáo chúng con, cầu nguyện cho linh hồn người đã qua đời hàng ngày,
trong mỗi Thánh lễ, Mẹ ạ!
Cha quản nhiệm xứ Công Chánh thấy tôi vấn khăn tang, Ngài ngạc nhiên vì trong Họ Đạo có người qua đời, Ngài không hay biết. Nghe tôi trình bày, Ngài đến nhà, chia buồn với Mẹ chồng tôi, cùng cám ơn Mẹ, đã rộng lượng cho con cháu, được tự do nuôi dưỡng và thể hiện niềm tin của mình.
Tôi rất khâm phục và biết ơn, tấm lòng quảng đại của Mẹ. Dù trong những ngày tháng khó khăn nhất, 4 mẹ con tôi
vẫn đọc kinh, cầu nguyện hằng đêm, ngay dưới mái nhà
của Mẹ. Ngày Chúa nhật, Mẹ còn nhắc nhở tôi, cứ để công việc đang làm dở đó, đi dự
lễ cho đúng giờ!
Tôi dâu út, Mẹ chồng là dâu trưởng, nên tôi cũng bị cuốn theo những bận
rộn của các ngày kỵ giỗ. Mẹ chồng lo chuẩn bị, hàng tháng trước đó:
Mẹ để dành gạo trên sàng, mỗi phiên chợ gom dần: đậu xanh,
bún tàu, nấm mèo, nếp, đường...Chưa kể đến bầy gà vịt, đã nuôi và vỗ béo từ mấy tháng trước. Những con vịt ức thật dày, nấu lên thơm phức!
Mấy hôm áp ngày giỗ, hai Mẹ con đã lo rọc lá chuối, phơi, lau, xếp, cắt sẵn. Cùng lúc, xào nhân dừa, đậu xanh. Luộc lá gai,
thái nhỏ, quết với bột nếp để làm bánh ít lá gai. Gói hàng trăm cái, để trước cúng, sau làm quà cho mỗi gia
đình. Trước đó khoảng 10 ngày, Mẹ còn nhắc tôi, làm một
thẩu mắm. Cá cơm, tôi ngắt đầu, rút ruột, ướp muối, chút đường, tỏi, ớt, trắng
phau như mắm cá thu xay, để ăn với thịt phay, rau ghém.
Chính ngày giỗ, con cháu, dòng họ, hàng xóm, tề tựu về.
Người đi “sáng đường”. Mẹ tôi hân hoan nói thế! Mọi người rộn rã nói cười. Dịp
tốt để thăm viếng,
gặp gỡ đông đủ! Khi cỗ bàn đã bày biện trên các bàn thờ. Ai nấy lần lượt vào cúng. Câu chuyện vẫn nở như…bắp
rang, chung quanh
một người, đang khấn vái lâm râm trước bàn thờ. Tôi nghe tiếng anh Bốn sai bầy cháu:
- Mời thím Bảy bay vào cúng!
Tôi chưa kịp chạy lên, Mẹ chồng đã đỡ lời:
- Con Thơ cúng rước hồi hôm rồi!
Sợ
tôi luộm thuộm,
không quen, nên Mẹ bày cho tôi cúng từ tối hôm trước. Ngày Cha chồng mất, tôi đã nghe, có người tò mò:
- Coi thử chị Bảy, Công giáo, cúng ra sao?
Mẹ
chồng tôi rất nhanh nhẹn, tháo vát. Tâm hồn quảng đại bao dung, nhưng không ủy
mị. Tôi chưa từng nghe Mẹ than thở hoặc rơi lệ bao giờ! Có lẽ nỗi nhớ thương hai người con trai xa vắng: Một người đã khuất,
một người còn đang tù tội. Mẹ thể hiện bằng sự nỗ lực, hy sinh, lo cho các cháu được no đủ, hạnh phúc.
Một lần, tôi đau nặng, phải nằm liệt. Mẹ chồng đến, ngồi bên giường, nắm
bóp bàn chân lạnh ngắt của tôi. Mắt Mẹ long lanh, ướt:
- Thơ ơi! Nếu có phải chết, Mẹ xin chết thay cho con! Con phải sống, đợi thằng Hân trở
về!
Tôi trào nước mắt, gượng ngồi dậy:
- Mẹ ơi! Con yêu quý Mẹ! Con sẽ khỏe để phụ giúp Mẹ, nuôi dưỡng đàn cháu nhỏ, chờ anh Hân về. Anh vẫn nhớ thương và mong sớm
về gặp Mẹ!
Cuộc sống vất vả, khó khăn, nhưng tràn đầy yêu thương. Trong trại
“cải tạo”, anh viết thư, hẹn ngày trở lại, thay Mẹ, thay em, gánh vác việc nhà, phác vẽ một tương lai đầm ấm.
Bẵng đi một thời gian, trong lần thư mới nhất, anh thúc
giục chúng tôi, lo “đi kinh tế mới” với cậu Lượng trước
đi. Lúc về,
anh sẽ đi thẳng tới đó. Khốn nỗi, cậu Lượng ở trên chiến hạm HQ1, đã sang Mỹ từ cuối tháng
4/75. Lúc đó, đang định cư tại Cali! Tôi nghĩ bụng: Anh thật là “Hồn
bướm mơ tiên”!
Thế
rồi, anh đã trốn trại! Công an trại Gia Rây rảo hết các địa chỉ của thân nhân
chúng tôi để dò la, tìm kiếm. Cha Mẹ vắng nhà, các cháu sợ lắm. Tôi bảo: Các
cháu cứ yên tâm. Chừng nào chú Bảy trốn đi từ nhà mình, mới sợ. Đằng này, chú
đi từ trong trại, mình đâu có trách nhiệm gì!
Tôi
vừa kịp đem 4 cây vàng vào cho anh đóng tiền vượt biên, lúc trở về, bị Công an
khám xét rất kỹ, ngay trên toa hành khách về Diêu Trì. Họ tra hỏi mãi câu: -Chị
đi cùng với ai?
-
Chẳng với ai cả, mình tôi!
Hành
khách trên toa, đổ dồn con mắt, nhìn mớ hành lý của tôi, đang bị lục soát tỉ mỉ,
họ xì xầm:
-
Coi bộ cô này đâu có phải dân đi buôn?
Vừa
về đến nhà, Công an xã mời tôi lên, làm việc với Công an trại giam. Hết lần này
tới lần khác.Tôi đi đâu, cũng bị theo dõi, tra hỏi. Họ hứa hẹn, khuyến dụ tôi:
Hãy tìm anh Hân về. Trong chương trình tái thiết đất nước, người phi công như
anh sẽ được trọng dụng.
-
Tôi không tin! Người giáo viên như tôi, nhà nước còn chưa cho đi dạy, nói chi đến
một phi công lái trực thăng võ trang?
-
Chỉ là giai đoạn đầu thôi. Nếu anh ấy ra nước ngoài, hoặc chị có bước đi bước nữa,
tôi nghĩ, chị cũng không có hạnh phúc!
-
Hạnh phúc của chúng tôi đã mất, khi con không có cha, vợ chẳng có chồng. Còn điều
anh nói: “Bước đi bước nữa”? Chỉ có thể xảy ra, khi anh ấy đã chết thôi! Tôi hỏi
thật: - Anh Hân còn sống hay đã chết? Anh cứ nói thẳng đi! Tôi không dám nghi
ngờ. Nhưng dư luận
đồn ầm lên là các anh đã giết chồng tôi rồi! Tôi làm đơn, lấy tính mạng cả nhà
ra bảo lãnh, xin cho anh ấy về. Các anh không cho, các anh quản lý. Sao bây giờ
lại hỏi tôi? Dù đang đóng kịch, giọng tôi bỗng xúc động nghẹn ngào!
-
Chị không được nói thế! Mạng sống con người, đâu phải chuyện chơi! Muốn giết
thì giết sao?
Sau
lần ấy, tôi không còn bị kêu lên xã để Công an thẩm tra nữa. Có lẽ họ đã về trại
Gia Rây rồi. Nhưng, chính quyền địa phương, rõ ràng ra mặt kỳ thị với gia đình tôi. Nhất là với mẹ con
tôi. Tôi đi xin thị thực khai sinh cho các con đi học. Họ khó dễ, họ chì chiết
tôi! Nào chúng tôi có làm gì nên tội?
Vì
tương lai của các cháu, tôi đành xin phép Mẹ, đem các con vào Căn Cứ 3, Đồng Nai. Ở đó, dân tứ
xứ qui tụ về, nhập hộ khẩu rất dễ, chỉ cần vài trăm ngàn là xong ngay. Tôi làm
rẫy, trồng bắp, đậu xanh. (Dù sao, con giun không đáng sợ bằng con đỉa)! Mở một
cái quán nhỏ bán tạp hóa. Sau, tôi xin dạy hợp đồng, dạy liên tiếp 2 ca, mỗi ca
2 tiếng. Ở đây đang thiếu phòng ốc và thiếu giáo viên trầm trọng!
Muốn
cho vụ trốn trại của anh Hân lắng dịu, đến mấy năm tôi chưa về lại Quy Nhơn. Những
người trong thôn hỏi Mẹ: -Lâu rồi chị Bảy không về, chắc chỉ có chồng quá? Hả
bác Hai?
Mẹ
chồng quả quyết: - Không đâu, con Thơ theo Công giáo mà!
Cám
ơn Mẹ đã hiểu lòng con. Vâng, “Sola Mors”: Chỉ trừ cái chết! Con vẫn yêu
thương, trung tín đợi chờ người con trai út của Mẹ!
Cuối
Đông năm 98, nghe tin Mẹ chồng đau nặng. Tôi và con gái về thăm. Mẹ đang nằm tại
bệnh viện Thánh Gia. Mẹ vui mừng nói với các bệnh nhân cùng phòng: -Đây là con
dâu và cháu nội út!
Mẹ đau thận, mổ rồi, bác sĩ mới phát hiện Mẹ bị
ung thư, nên chỉ đặt ống, dẫn nước tiểu ra ngoài. Trông Mẹ tiều tụy, chỉ còn da
bọc khung xương! Cả hai Mẹ
con, đều không dám nhắc gì đến tin tức của- người- còn- vắng- mặt!
Hai tháng sau, Mẹ chồng tôi qua đời. Những
ngày cuối cùng trên giường bệnh, tôi nghe tiếng Mẹ rền rĩ trong cơn đau:
-Trông- con- như- trông- nước- uống! Con- ơi!
Hân- ơi!!!
Giờ
đây, trên cõi Vĩnh Hằng, Mẹ đã tường mọi sự. Con và các cháu vẫn nhắc hoài những
năm tháng sống dưới mái nhà Mẹ, trong vòng tay từ ái của Mẹ.
Di ảnh của Cha Mẹ, tôi làm thành ba bộ, ghi rõ
ngày sinh, tháng tử. Giao cho các cháu, mỗi gia đình một bộ. Đặt nơi trang trọng
trong nhà, giúp các cháu gần gũi, tưởng nhớ đến công ơn của Ông Bà: Bậc tiền
nhân đã hết lòng tận tụy, hy sinh cho chúng!
Riêng
lòng tôi tràn ngập đắng cay: Nay các cháu được khôn lớn, nên người, cũng là lúc
Cha Mẹ chẳng còn! Ân tình của Ông Bà, Cha Mẹ, nguyện ghi khắc trong tim! Con
cháu chỉ còn biết thiết tha cầu nguyện hằng đêm. Cầu mong linh hồn các Ngài được
hưởng hạnh phúc ngàn thu. Mẹ ơi! Con vẫn trọn tâm tình yêu mến, biết ơn Mẹ. Dù
anh Hân có ra sao chăng nữa! Dù anh ấy vẫn đi biền biệt không về! Có ai thương
con dâu được như Mẹ? NGƯỜI MẸ CHỒNG xứ BÌNH ĐỊNH của tôi!
Ythnguyen
Sai Gòn_MH_23g15' 17/01/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét