Do not stand by my grave and weep:
https://youtu.be/gkfLms4KQ_s
XIN ĐỪNG THAN KHÓC TRƯỚC MỘ TÔI
*
lời của một người Mẹ quá cố
muốn nhắn nhủ với đứa con,
bài thơ gốc của Mary Frye
nên được dịch thoát lại
với cách xưng hô đúng như sau:
https://youtu.be/gkfLms4KQ_s
XIN ĐỪNG THAN KHÓC TRƯỚC MỘ TÔI
*
Xin đừng than khóc trước mộ tôi
Thân xác nằm đây hồn đi rồi
Tôi là cơn gió ngàn xa rộng
Là tuyết mênh mông trắng cả trời
*
Tôi là mưa , giọt mưa rơi nhẹ
Là hạt mầm vừa hé nụ xanh
Là bình minh , mặt trời ló dạng
Là nụ cười tươi duyên dáng xinh
*
Thân xác nằm đây hồn đi rồi
Tôi là cơn gió ngàn xa rộng
Là tuyết mênh mông trắng cả trời
*
Tôi là mưa , giọt mưa rơi nhẹ
Là hạt mầm vừa hé nụ xanh
Là bình minh , mặt trời ló dạng
Là nụ cười tươi duyên dáng xinh
*
Tôi cánh chim trời bay muôn phương
Là ngôi sao đẹp của màn đêm
Là đóa hoa nở trong vườn thắm
Hồn đang tĩnh tu trong căn phòng
*Tiếng hát tôi đang cất cánh bay
Tình yêu nuôi nấng dáng tôi gầy
Trước mộ tôi xin đừng rơi lệ
Tôi vẫn thênh thang sống với đời
*tôn thất phú sĩ
Là ngôi sao đẹp của màn đêm
Là đóa hoa nở trong vườn thắm
Hồn đang tĩnh tu trong căn phòng
*Tiếng hát tôi đang cất cánh bay
Tình yêu nuôi nấng dáng tôi gầy
Trước mộ tôi xin đừng rơi lệ
Tôi vẫn thênh thang sống với đời
*tôn thất phú sĩ
phỏng dịch
lời của một người Mẹ quá cố
muốn nhắn nhủ với đứa con,
bài thơ gốc của Mary Frye
nên được dịch thoát lại
với cách xưng hô đúng như sau:
Xin đừng đứng bên mồ tôi nhỏ lệ
Con yêu ơi, thôi con đừng khóc nữa
Vì thật ra hồn mẹ chẳng ở đây
Đã quyện vào cơn gió giữa rừng cây
Là hạt tuyết tựa kim cương lấp lánh.
Là nắng nhuộm trên cánh đồng lúa chín
Là cơn mưa dìu dịu những ngày thu
Mỗi ngày con thức buổi sáng nhẹ ru
Mẹ là đàn chim tung bay cao
vút
Con thôi đứng bên mồ mẹ thổn thức
Mẹ không ở đây. Mẹ đã chết đâu.
Phan Hạnh-2
**
Xin đừng đứng bên mồ tôi nhỏ lệ
Xin
đừng đứng bên mồ tôi thổn
thức
Vì tôi
không yên ngủ ở nơi đây
Tôi
là ngàn gió thổi giữa rừng cây
Là hạt tuyết tựa kim cương lấp lánh.
Tôi
là nắng nhuộm vàng bông lúa chín
Là cơn mưa dìu dịu những ngày thu
Khi con thức dậy buổi sáng nhẹ ru
Tôi
chính là sự vút lên bỗng chốc
Của đàn chim lặng lẽ lượn thành vòng
Xin
đừng đứng bên mồ tôi thổn
thức
Tôi
không ở đây. Tôi đã chết
đâu.
Phan Hạnh phóng
tác-1
*
*
Do not stand by my grave
and weep
Do not
stand by my grave and weep:
I am not
there. I do not sleep…
I am a
thousand winds that blow
I am the
diamond’s glint on snow
I am the
sunlight on ripened grain
I am the
gentle autumn’s rain
When you
awake in the morning’s hush
I am the
swift uplifting rush
Of quiet
birds in circle flight
Do not
stand by my grave and cry:
I am not
there. I did not die.
Đây là bài
thơ duy nhất của Mary Frye cảm tác viết ra trong đời sau khi nghe cô bạn
di dân người Đức gốc Do Thái ở trọ nhà bà đau buồn kể chuyện mẹ cô mất ở quê
nhà nhưng không thể về thọ tang. Mary Frye không phải là thi sĩ chuyên nghiệp
theo nghĩa thông thường mà chỉ là một phụ nữ nội trợ và làm nghề cắm hoa an phận
với cuộc đời bình dị. Đó là một trong những lý do bài thơ Do not stand by my
grave and weep phổ biến trong nhiều thập niên nhưng tác giả chẳng biết là ai.
*
Bài thơ không tựa và tác giả ẩn danh:
*
Bài thơ không tựa và tác giả ẩn danh:
Đừng đứng bên mộ anh và nhỏ lệ:
Anh không ở trong mộ này. Anh không ngủ đâu em.
Anh là ngàn ngọn gió thổi khắp phương trời
Anh là kim cương lấp lánh trên tuyết lạnh
Anh là ánh nắng nhuộm vàng hạt lúa chín
Anh là giọt mưa của trời thu êm ả
Khi em thức giấc lúc ban mai thinh lặng
Anh là lực xua đàn chim vụt bay cao
Những cánh chim lặng lẽ lượn những đường vòng
Đừng đứng bên mộ anh và khóc lóc:
Anh không ở trong mộ này. Anh không chết đâu em.
*
Bài thơ mất 66 năm sau mới tìm ra đúng tác giả
Thật ra, theo bách khoa từ điển mở Wikipedia, Do not stand by my grave and weep là một
bài thơ độc nhất nhưng rất nổi tiếng do phụ nữ người Mỹ tên Mary Elizabeth Frye
sáng tác vào năm 1932 trong một bối cảnh khác.
Trong Anh ngữ, các đại danh từ “I” và “You” có thể diễn đạt
trong bất cứ mối liên hệ nào cũng được. Khi dịch ra Việt ngữ, hai đại danh từ
đó thay đổi tùy từng mối liên hệ ngôi thứ vai vế và kể cả tình huống nữa.
Do đó, bản dịch Việt ngữ trên đây xứng hợp trong liên hệ chồng
vợ, như lời nhắn nhủ của tử sĩ dành cho quả phụ trong hai câu cuối: “Đừng đứng
bên mộ anh và khóc lóc/Anh không ở trong mộ này. Anh không chết đâu em.”
Nhưng Mary Elizabeth Frye đã viết lên bài thơ trong một bối
cảnh khác và mối liên hệ khác. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cần trở lui về quá khứ
của 80 năm trước.
Nguyên nhân và nguồn
cảm hứng
Mary Elizabeth Clark chào đời tại thành phố Dayton tiểu bang
Ohio vào ngày 13 tháng 11, 1905 và mất ngày 15 Tháng Chín năm 2004. Mồ côi từ
lúc mới lên 3 tuổi, Mary kết hôn với Claud Frye năm 1927 và trở thành bà nội trợ
Mary Frye sống ở thành phố Baltimore. Chính nơi đây, Mary đã viết lên bài thơ độc
nhất vào năm 1932. Vào thời điểm đó, vợ chồng Frye có cho một cô gái di dân người
Đức gốc Do Thái tên Margaret Schwarzkopf trú ngụ. Margaret Schwarzkopf lo lắng
về tình trạng đang đau bệnh của người mẹ ruột của mình vẫn còn ở Đức. Sự gia
tăng của phong trào bài xích người Do Thái ở nước Đức đã khiến cho
Margaret khó có thể trở về quê thăm mẹ.
Khi mẹ qua đời bên kia bờ Đại Tây Dương, Margaret đau khổ nói với Mary Frye rằng
cô đã không có cơ hội để đứng trước ngôi mộ của mẹ và được khóc. Mary Frye làm
bài thơ trong một khoảng khắc thương cảm hoàn cảnh của người khác vì bản thân
mình cũng mất mẹ và thiếu vắng tình thương của mẹ từ khi ba tuổi.
Nơi bàn ăn nhà bếp, trong ngập tràn cảm xúc bất chợt, Mary
đã viết lên những dòng thơ trên một bao giấy dầu màu nâu đựng thức ăn mua ở chợ.
Sau này bà kể ý nghĩ về sự tử sinh tự nhiên nảy ra trong đầu óc và tuôn chảy
qua ngòi bút bằng dòng thơ. Mary Frye đã tự đặt mình vào vai trò của một người
mẹ qua đời khuyên đứa con gái đừng bi lụy khóc than, và bà có ngờ đâu đã để lại cho đời một bài thơ
bất hủ mà người ta thường xướng đọc trong các lễ hạ huyệt ở nghĩa trang.
Sau đó Mary Frye đã đưa bài thơ mà bà đã ngẫu hứng cảm tác
cho một số người thân trong gia đình và bạn bè xem. Dù bài thơ không bao giờ được
công bố để bảo vệ bản quyền bằng một văn kiện chính thức nhưng nó vẫn tồn tại
qua thời gian và đã được xác nhận bằng cáo phó của bà đăng trên báo Times và điếu
văn của người thân đọc trong tang lễ khi bà mất.
Báo Times đã xác nhận Mary Frye là tác giả không thể tranh
cãi của bài thơ nổi tiếng này, một bài thơ đã được ưa chuộng xướng đọc tại tang
lễ và những dịp thích hợp khác trên toàn thế giới trong suốt tám mươi năm qua.
Kết quả của một cuộc thăm dò ý kiến những người mê đọc sách năm 1996 bầu chọn
nó là bài thơ được yêu thích nhất của Anh quốc.
Cuộc điều tra đi tìm tác giả
Nhiều người ở vương quốc Anh bắt đầu nghe biết đến bài thơ kể
từ khi cha của một người lính Anh bị tử thương do một vụ nổ bom ở Bắc Ái Nhĩ
Lan đã nhờ đài phát thanh BBC đọc lên vào năm 1995 để tưởng nhớ con trai của
ông. Điều này đã gợi trí tò mò của nữ phóng viên báo chí Abigail Van Buren. Nữ
ký giả này đã bỏ ra mấy năm mở cuộc điều tra truy tìm tác giả và sau cùng tìm
ra đầy đủ bằng chứng xác nhận năm 1998. Bản chính gốc của bài thơ đã được báo
The Times ấn hành và được đọc trong tang lễ của tác giả ngày 5 tháng 11 năm
2004.
Trước khi được chính thức xác nhận của Mary E. Fry và qua
nhiều thời kỳ khác nhau, bài thơ này đã được cho là của JT Wiggins, một di dân
người Anh ở Mỹ hoặc của Marianne Reinhardt, một chiến binh Mỹ ẩn danh nào đó
nơi vùng cao nguyên Việt Nam, và gần đây là Stephen Cummins, một người lính Anh
thiệt mạng ở Bắc Ireland đã để lại một bản sao cho người thân của mình. Nhiều
người khác cho đó là một lời cầu nguyện trong lễ chôn cất của người da đỏ
Navajo ở miền Tây Nam Hoa Kỳ.
Cảm nghĩ riêng thay lời kết
Có người cho rằng chết giống như cởi bỏ chiếc áo cũ để mặc
vào chiếc áo mới đẹp đẽ hơn. Người chết là người ngủ một giấc ngủ không bao giờ
thức dậy nữa, an giấc
ngàn thu. Vì vậy con người không nên bi lụy khóc than khi người thân qua đời.
Nhưng trên thực tế, không ai không cảm thấy nỗi đau mất mát
to lớn choáng ngợp khi phải vĩnh viễn chia lìa người mình thương mến. Nỗi đau
bao giờ mới nguôi ngoai khó mà xác định. Phản ứng và sự biểu lộ cảm xúc trước
cái chết cũng mỗi người mỗi khác và còn tùy thuộc vào phong tục xã hội. Có người
gào khóc vật vã, có người chỉ thầm rơi lệ.
Sinh ly tử biệt là định luật thường tình bất biến của cuộc đời
nên con người đành chấp nhận. Đến một lúc nào đó, những người chúng ta yêu
thương đều sẽ mất đi theo thời gian. Chấp nhận sự mất mát là liều thuốc tinh thần
giúp chữa lành những nỗi đau và đem lại cho chúng ta sự bình an.
Tóm lại, tình trạng vĩnh viễn chia lìa với người thân yêu có
thể đem lại một nỗi đau sâu thẳm, nhưng chúng ta nên biết chấp nhận, không nên
chìm đắm trong sầu bi khổ lụy vô ích. Có biết bao người như tôi ở hải ngoại, vì hoàn cảnh, không thể có mặt tiễn
đưa cha mẹ trở về lòng đất nơi quê nhà. Tôi mong nghĩ linh hồn cha mẹ linh thiêng là làn gió
xuân thoảng hương thơm hoa lilac trước hiên,
là tia nắng ban mai đến
sớm tháng hè, là rừng
phong thay áo trong mùa thu, là những hoa tuyết mùa đông mong manh lất phất rơi bám vào
cửa sổ thư phòng, là trăng sao vời vợi trên bầu trời đêm khuya thức viết bài cho kịp… Văng vẳng
trong tâm thức đứa con như có tiếng thì thầm của mẹ là “Con đừng đứng bên mồ Má thổn thức… Vì Má không yên
ngủ ở nơi đây.”
Trong đêm tĩnh
lặng, tôi nghe lòng mình
quặn thắt rưng rưng để cố ngăn cho khỏi khóc.
Phan Hạnh.