|
" . . . Chân Trời Tím . . . đẹp quá há anh . . . nó . . . ở đâu vậy. . .?"
Thật sự thì
tôi chỉ hát vậy thôi, hứa vậy thôi, cho vợ tôi nghe . . . cho vui vậy
thôi, chứ làm sao tôi biết được cái chân trời tím này nó như thế nào? Và
nó ở đâu?
Nhưng không lẽ tôi chịu bí? Tôi làm ra bộ bí mật:
" . . . Chân
Trời Tím ở một nơi . . . rất khó tìm . . . rất xa . . . nhưng anh rất
thích nơi đó, và anh nghĩ rằng, em cũng sẽ thích khi đến được nơi đó."
Vợ tôi nghe thế là chịu liền:
" . . . Anh đưa em tới chỗ đó, nghen!"
Thế là tôi có vợ.
Sau đám cưới,
hai đứa tôi hì hục làm việc kiếm tiền . Mỗi buổi
tối ngồi bên nhau, tôi đổi tông giải thích về chân trời tím cho vợ tôi
nghe:
"Chân
Trời Tím là một nơi mà mình đặt tất cả những ước mơ của mình ở đó, và
mình ráng tìm đủ mọi cách để đến đó. Chân Trời Tím của chúng mình bây
giờ là xứ Úc ở tận chân trời xa tắp, ở đó có tự do, có hạnh phúc. Anh sẽ
tìm cách để đưa em đến đó, mình sẽ sống một cuộc đời đáng sống
. . . nghe em."
“Đây là . . . căn nhà mầu tím, ở nơi chân trời tím mà anh đã hứa đưa em tới đó.”
Vợ tôi ngắm căn nhà một hồi rồi nói:
“Không được đâu . . . nhà mà sơn mầu tím, nó . . . kỳ lắm, như vầy là đẹp rồi.”
“Không được đâu . . . nhà mà sơn mầu tím, nó . . . kỳ lắm, như vầy là đẹp rồi.”
Đồ đạc trong
nhà chúng tôi . . . chẳng có gì hết, đi từ đằng trước ra đằng sau, nhắm
mắt đi cũng không đụng phải cái bàn cái ghế nào hết. Vợ tôi vừa xếp đồ
vào trong nhà vừa tự hát:
“Anh chắc em mơ về nơi chân trời tím.
Nghe đáy tim mơ ước khi ta tròn đôi
Xin yêu ái muôn đời không lẻ loi
như sắc mây chân trời tím chiều rơi.”
Nghe đáy tim mơ ước khi ta tròn đôi
Xin yêu ái muôn đời không lẻ loi
như sắc mây chân trời tím chiều rơi.”
Hát đã, vợ tôi suy nghĩ một hồi rồi chợt hỏi tôi:
“Anh ơi . . . Chân Trời Tím nó . . . ở chỗ nào hả anh?”
“Anh ơi . . . Chân Trời Tím nó . . . ở chỗ nào hả anh?”
Tôi vui vẻ trả lời:
“Đây này. Chân Trời Tím là nơi mình đang đứng đây này. Có phải là từ hồi đến Úc tới giờ, em mơ mua được một căn nhà ưng ý hay không? Bây giờ em đang đứng trong ngôi nhà mà em thích đó. Em đã đạt được niềm mơ ước của em, tức là em đã đến nơn Chân Trời Tím mà em mong ước đó, đúng không em?”
“Đây này. Chân Trời Tím là nơi mình đang đứng đây này. Có phải là từ hồi đến Úc tới giờ, em mơ mua được một căn nhà ưng ý hay không? Bây giờ em đang đứng trong ngôi nhà mà em thích đó. Em đã đạt được niềm mơ ước của em, tức là em đã đến nơn Chân Trời Tím mà em mong ước đó, đúng không em?”
Vợ tôi ngập ngừng một hồi rồi mới nói:
“Cũng đúng, nhưng mà em chưa thấy . . . Chân Trời Tím . . .
Em muốn nói chân trời tím thật sự kìa.”
Trước mắt của
vợ tôi bây giờ, chắc là bà ấy chỉ thấy một chân trời . . . xám ngắt chứ
không phải là tím như trong mơ ước. Tôi nhìn quanh căn phòng, cũng chỉ
thấy mấy bức tường trắng xoá, chứ chẳng thấy một mảng nào của chân trời
tím cả.
Tôi vừa thở vừa . . . hứa tiếp với vợ:
“Anh . . . sẽ tìm ra chân trời tím thật sự và anh . . . sẽ đưa em tới đó.”
. . . . .
Ba chục năm trôi qua rồi, tôi vẫn chưa tìm ra cái mà tôi gọi là chân trời tím để đưa vợ tôi tới cả. Tôi đành nói với vợ:
“Chân trời
tím nó chỉ là . . . tưởng tượng thôi em à. Thôi thì . . . cứ nơi nào em
ước mơ và đạt được ước mơ đó, thì nơi đó là chân trời tím đó . . .”
Ngày lại ngày
trôi qua . . . Bất chợt, một hôm tôi nhận được email của một người bạn ở
bên Mỹ. Trong đó có những tấm hình chụp một hàng cây Jacaranda - Phượng
Tím thật là đẹp. Ông bạn giải thích những tấm hình này là:
“Cảnh đẹp bên Úc.”
“Cảnh đẹp bên Úc.”
Tôi ngắm những
tấm hình, những hàng cây nối dài với nhau thành một chuỗi mầu tím tới
tận chân trời, thật là đẹp. Tôi đem cái laptop đến khoe vợ:
“Em ơi . . . em coi nè, những cây hoa Jacaranda nở hoa mầu tím đẹp ghê đi . . .”
Vợ tôi đón lấy cái máy, vừa ngắm hình vừa khen:
“Hình đẹp quá há anh! Bông nở tím cả một bầu trời . . . giống như . . .”
Hai vợ chồng tôi không hẹn mà cùng nói một lượt:
“. . . CHÂN TRỜI TÍM . . . ”
Đúng! Đây mới là chân trời tím mà chúng tôi đã ước mơ, đã đi tìm từ hồi đó tới giờ.
Nhưng chân trời tím này ở đâu?
Người bạn gởi
hình cho tôi, ngoài câu chú thích “Cảnh đẹp bên Úc” đã không ghi thêm
bất cứ câu nào cho biết xuất xứ của những cây hoa tím này cả. Tôi sinh
sống ở tại xứ Úc này đã hơn ba chục năm rồi, nhưng chưa bao giờ được
nghe nói tới nơi nào có cảnh đẹp cứ như là chân trời tím này cả. Không
lẽ lại hỏi người bạn để biết tấm hình này chụp ở đâu? Mà có hỏi, cũng
chưa chắc là anh ta đã biết, vì anh cũng chỉ là người nhận được hình rồi
chuyển cho người khác xem mà thôi.
Hễ có thời giờ
rảnh là tôi vào internet tìm tòi cái . . . chân trời tím này. Tìm mãi,
tìm mãi, cuối cùng, tôi mới kiếm ra được nơi chụp những tấm hình này:
Đó là thành phố Grafton của Tiểu bang New South Wales, Úc Đại Lợi.
Mỗi năm,
vào mùa hoa nở, thành phố Grafton có tổ chức Mùa Hội Hoa Phương Tím –
Jacaranda Festival, từ cuối Tháng Mười cho đến đầu Tháng Mười Một.
May quá, bây
giờ mới là Tháng Tư, tôi vội vàng tìm cách đến thành phố này và đặt cọc
khách sạn cho ngày nghỉ đi tìm Chân Trời Tím để đưa vợ tới nơi đúng theo
lời hứa khi làm đám cưới.
Tôi vui vì đã
tìm ra chân trời tím, vợ tôi còn vui hơn cả tôi nữa, vì sẽ được đưa tới
nơi chân trời tím, nơi chúng tôi có thể kết mây xây lâu đài tình ái.
Suốt ngày bà ngồi gọi điện thoại cho bạn bè, cho anh chị em, để khoe là
mình đã tìm ra chân trời tím và sẽ tới chân trời tím này. Chắc là trên
thế giới này cũng có nhiều người ước mơ chân trời tím lắm, nên đã có rất
nhiều người chịu nghe vợ tôi kể chuyện và cùng phụ với vợ tôi tìm cách
đến nơi này, trong số đó, có vợ chồng người chị của vợ tôi. Bà chị vợ
không quản ngại gọi điện thoại hết hãng hàng không này tới hãng máy bay
khác, hết hotel này tới hotel kia để tìm phương tiện nào nhanh nhất, nơi
trú ngụ nào giá hạ mà lại
sang trọng đẹp đẽ và đủ tiện nghi nhất. Cuối cùng, bà cho chúng tôi
biết:
“Muốn đến Grafton, phải đi máy bay từ Melbourne tới Sydney, rồi từ Sydney bay tới Coffs
Habour, rồi từ đây mới mướn xe chạy khoảng 80 cây số nữa mới tới
Grafton (có may bay bay thẳng từ Melbourne tới Coffs Habour, nhưng chỉ
bay cuối tuần mà thôi).
Máy bay thì còn chỗ, nhưng hotel thì . . . người ta đặt hết trơn rồi.”
Bây giờ mới là Tháng Tư thôi, mà người ta nào đã đặt kín hết cả hotel rồi?
Tôi ngạc nhiên
quá, không ngờ rằng, chẳng phải chỉ có một mình vợ chồng tôi mơ tới
chân trời tím, mà có rất nhiều, rất nhiều người đã có cùng ước mơ giống
như chúng tôi. Tôi cố gắng gọi điện thoại một lần nữa cho chắc ăn. Một
nhân viên của khách sạn cho tôi hay:
“Hội Hoa
PhượngTím ở Grafton nổi tiếng khắp thế giới, nên du khách từ khắp nơi đổ
về nơi này để xem Hoa Phượng và buổi diễn hành của mùa hoa nở. Do đó,
mặc dù hội chợ tới tháng Mười mới có, nhưng đến Tháng Tư you mới tìm
phòng thì trễ lắm rồi, hotel của chúng tôi đã được du khách đặt cọc
trước hết rồi. Hay là, you hãy thử tìm chỗ ở các . . . Caravan Park xem
sao? May ra họ còn chỗ đó, nhưng mà phải lẹ lên.”
Tôi là lính,
ngủ bờ ngủ bụi đã quen, nếu như ở Grafton chỉ còn một miếng đất cắm lều
cũng là tốt phước cho tôi lắm rồi. Vợ tôi cũng quen đi cắm trại ngủ lều,
chắc là . . "No Star Where". May quá, chúng tôi mướn được hai phòng
ngủ, gọi là cabin, ở Clarence Valley Caravan Park.
Trong khi chờ đợi tới ngày đi, tôi bỏ công tìm tài liệu về Chân Trời Tím Grafton và cây hoa Phượng Tím nổi tiếng.
Jacaranda (dʒækəˈrændə) có tới 49 loại khác nhau (sp Jacaranda Mimosifolia),
có chiều cao từ 5m cho tới 30m, tàn vươn rộng hơn 30m và có thể sống
lâu tới 200 năm, xuất xứ từ những vùng nhiệt đới của miền Trung Phi và
Nam Phi Châu và nhất là ở những xứ vùng Nam Mỹ, như Brazil, Argentina.
Thành phố
Petoria ở Nam Phi còn được gọi là “Thành Phố Của Hoa Phượng Tím” với
những hàng cây phượng trồng dọc theo những con đường trong thành phố.
Vào mùa Hè, hoa nở đầy đường và nơi các trường đại học, nên trong giới
sinh viên đã có lời đồn là: Vào mùa thi, nếu thí sinh nào được hoa
phượng tím rơi dính vào tóc, người đó coi như là đã được chấm đậu. Sau
đó, hoa Phượng Tím lan tràn đến Australia. Vì Jacaranda được trồng nhiều
ở Grafton, nên nhiều người đã tưởng rằng Jacaranda xuất xứ từ Úc.
Thành phố
Grafton, ở về hướng Bắc, cách xa Sydney (Tiểu bang New South Wales)
khoảng 630 km và 340 km về hướng Nam của Brisbane (Tiểu bang Queensland)
Vùng đất này được khám phá bởi một tù nhân người Anh tên là Richard
Craig, vào năm 1831. Sau đó, ông được tha bổng và tặng thêm một trăm
bảng Anh (One Hundred pounds) để đem người đến khai phá vùng đất hoang
vu này (Úc là thuộc địa của Vương Quốc Anh. Vào những năm 1800, khi mới
khám phá ra hoang đảo rộng lớn này, chính phủ Anh đem những tù nhân của
họ tới giam cầm tại đây để bắt họ khai khẩn thuộc địa mới).
Đến năm 1851,
Toàn Quyền FotzRoy đã chính thức đặt tên thị trấn (Town) này là Grafton
(phỏng theo Tước Vị của ông nội của ông là “The Duke Of Grafton” là Cựu
Thủ Tướng của Hoàng Gia Anh). Vào ngày 02- 07- 1879, một cư dân chuyên
môn buôn hạt giống tên là H. A. Volkers, đã được trúng thầu trồng cây
Jacacanda cho thị trấn, và với vẻ đẹp của loài hoa Tím này, vào năm
1885, thị trấn đã được mang danh hiệu là Thành Phố (City of Grafton).
Cho đến nay, hơn 6,500 cây Jacaranda đã được trồng khắp nơi trong thành
phố Grafton. Thân cây Jacaranda được dùng để nhuộm vài, làm thuốc và làm
giấy.
Dân cư trong
thành phố sống về nghề đốn cây, chăn nuôi, đánh cá và phục vụ du khách
đến Grafton ngắm hoa Phượng Tím. Vào năm 1934, do số lượng du khách gia
tăng đáng kể, Hội Đồng Thành Phố Grafton đã họp và quyết định phải làm
một cái gì đó để vừa giúp vui cho du khách đến xem hoa, vừa hỗ trợ cho
việc buôn bán của cư dân. Kết quả là một hội chợ được đặt tên là
Jacaranda Festival sẽ được tổ chức mổi năm vào cuối tháng Mưới.
Hội chợ sẽ gồm
những trò chơi trên sông Clarence, chạy đua, ca nhạc trên sân khấu lộ
thiên, các quán ăn ngay trong công viên thành phố và quan trọng nhất là
một buổi diễn hành vào ngày bế mạc hội chợ. Để có tiền trang trải cho
hội chợ, tất cả các thành viên trong Hội Đồng Thành Phố, các thương gia
và cư dân sẽ cùng nhau tổ chức những buổi gây quỹ. Ai gây quỹ được nhiều
nhất sẽ được bầu làm Queen, King hoặc Princess và Prince.
Từ khi có Hội
Mùa Hoa Phượng Tím, Grafton đã được vào danh sách những địa điểm du lịch
của Úc. Thành phố này còn được nổi tiếng hơn nữa nhờ bản nhạc “Flame
Trees” mà ca sĩ và ban nhạc Cold Chisel đã trình diễn trong băng nhạc
“Twentieth Century) của họ vào năm 1984. Bản nhạc này do hai nhạc sĩ
Steve Prestwich và Don Walker viết chung với nhau và đã lên tới hạng thứ
26 trong bảng xếp hạng Nhạc Hay của Úc. Bản nhạc tả lại câu chuyện của
một thanh niên đi xa trở về thành phố cũ tìm lại những người bạn và
người yêu cũ của mình. Theo tài liệu của Nha Thống Kê (ABS), vào thời
điểm 2006, dân số của Grafton là 17,501 người. (phỏng theo tài liệu của Wikipedia, the free encyclopedia và Jacaranda Festival).
Chúng tôi đến
Grafton vào buổi chiều Thứ Bẩy, thành phố dã khai mạc Mùa Hoa Phương Tím
kỳ thứ 78 vào hôm Thứ Năm rồi. Việc đầu tiên mà tôi làm là lái xe đến
ngay con đường Pound và Tuff ở trung tâm thành phố, là nơi trồng nhiều
cây Jacaranda nhất.
Vừa tới nơi, không hẹn nhau mà cả bọn chúng tôi cùng kêu lên:
“OH! Đẹp Quá!”
Đẹp lắm bạn ạ,
Suốt con đường dài hơn 4 km, hoa Phượng Tím trồng dọc hai bên đường nở
đầy những hoa, nhìn từ đầu đường tới cuối đường, mút con mắt, toàn là
một mầu tím thẫm, tuyệt đẹp. Những cây Phượng có gốc thật là to, ít ra
cũng khoảng 100 năm (ở nhà tôi cũng có trồng một cây, đã hơn 17 năm mà
thân cây đường kính chỉ chừng 45 cm, những thân cây ở đây vào khoảng 1.5
tới 2m) với tàn vươn dài ra tới giữa đường, để hai hàng cây kết lại với
nhau như cổng chào đón mừng du khách từ phương xa. Hoa Phượng Tím không
những ở trên cây, mà còn rụng đầy trên thảm có xanh, tạo ra một tấm
thảm Tím thật là tuyệt vời mà không ở đâu có được.
Vợ tôi say mê nhìn những hàng cây Phượng Tím chạy xa tít tận chân trời rồi quay lại nói với tôi:
“Đây mới đúng là Chân Trời Tím đó anh!”
Tôi ca liền một câu cải lương:
“Anh đã hứa đưa em tới nơi Chân Trời Tím, thì chắc chắn có xa xôi cách mấy, có khó khăn cách mấy, anh cũng sẽ đưa em tới mà.”
Đứng một chỗ
ngắm hoa đã mắt rồi, chúng tôi lại leo lên xe đi. Suốt con đường Tuff
dài hun hút những hàng cây Jacaranda được trồng hai bên đường, cây nào
cũng thật là to một người ôm không hết, vươn tàn cây ra tới tận giữa
đường, đan vào nhau tạo thành một thứ cổng chào thiên nhiên thật là đẹp.
Mỗi khi thấy
có cảnh đẹp, chúng tôi lại ngừng xe bên lề đường để chụp hình. Nhưng
chụp hình từ bên lề đường thì làm sao có thể chụp được hai tàng cây giao
nhau? Do đó, chúng tôi đứng chờ bên lề đường, khi nào không có xe là
chạy ào ra giữa đường để chụp hình và quay phim, đến khi có xe là lại
chạy vội vào lề đường.
Không phải chỉ
có một mình chúng tôi ham chụp hình đâu. Cả một dọc xe đang đậu ở phía
sau chúng tôi đó, nào là tóc đen tóc vàng, nào là ông già bà cả, nào là
từng cặp từng đôi, ai cũng vội vã chụp hình chạy tới chạy lui, vui lắm
(sau này, khi tiếp xúc với dân địa phương, họ cho tôi hay, năm nào cũng
vậy, du khách đứng đủ mọi nơi mọi chỗ mà chụp hình, họ quen rồi, nên khi
chạy xe, họ không chạy nhanh, để du khách có thì giờ mà chụp hình, và
họ gọi những du khách này là . . . Crazy Tourists).
Lấy phòng xong rồi, chúng tôi lại vội vã chạy trở ra trung tâm thành phố để xem diễn hành (Festival Parade).
Mở đầu đoàn
diễn hành là hàng loạt xe hơi của thời xa xưa, từ năm 1912 cho tới 1953.
Tôi thật là ngạc nhiên khi thấy những chiếc xe được chế tạo hơn 100 năm
rồi mà vẫn chạy trên đường thật là ngon lành, nước sơn vẫn còn bóng
loáng.
Xướng ngôn
viên giới thiệu từng chiếc xe và chủ xe, họ từ những nơi xa xôi như New
York, Detroit, Adelaide, Melbourne, Perth . . . lặn lội tới tận đây để
cho mọi người ngắm xe của mình. Từ loại xe Phantom cho tới Ford, thật là
đẹp mắt.
Hấp dẫn nhất
là xe chở Nữ Hoàng Mùa Hoa Phương Tím năm 2012. Mỗi năm, cư dân của
Grafton sẽ chọn lựa ba Nữ Hoàng: Nữ Hoàng Hoa Phượng Tím (Jacaranda
Queen), Công Chúa Hoa Phượng Tím (Jacaranda Princess) và Công Chúa Hoa
Phượng Tím Mùa Du Lịch (Jacaranda Holiday Princess).
Nữ Hoàng và
Công Chúa được bầu không theo tiêu chuẩn sắc đẹp mà theo tiêu chuẩn các
thí sinh đã quyên góp được bao nhiêu tiền cho buổi hội chợ mùa hoa
phượng. Năm nay, cô Sara Filewood được bầu là Nữ Hoàng, cô Jenna
Atherton đuợc bầu là Công Chúa, và cô Sharni Rouse được chọn là Công
Chúa của Mùa Du Lịch 2012.
Tổng số tiền các cô quyên được năm nay là $50,000, được dùng cho việc tổ chức hội Hoa Phượng năm 2013.
Nữ Hoàng
Sara Filewood mặc áo dạ hội trắng, đội Vương Miện mầu tím viền trắng,
đứng giữa. Bên tay trái là Công chúa Jenna Atherton đội Kim miện trắng.
Bên tay phải là Công Chúa Mùa Du Lịch Sharni Rouse.
Tiếp theo xe của Nữ Hoàng là xe hoa của các trường học, các hội đoàn và những thương nghiệp trong vùng. Dame Edna (giả)
cũng có mặt để dẫn đầu đoàn diễn hành, nghệ sĩ này vừa đi vừa kể những
câu chuyện vui, nhưng bị át giọng bởi đoàn đoàn xe lửa xuyên Tiểu bang
chạy rầm rầm trên cầu. Tiếp theo đó là ban kèn túi hơi Ái Nhĩ Lan của
thành phố, với những nghệ sĩ từ 5 tuổi cho tới 70 tuổi vừa đi vừa thổi
kèn thật là vui nhộn. Ban kèn hơi phùng má thổi kèn để phụ cho ban vũ
Ballet với những vũ công tí hon ẻo lả thật không thua gì những nghệ sĩ
chuyên nghiệp. Sau đó, nào là đội xe đạp BMX, đội thuyền rồng và ngay cả
RSL chi nhánh Grafton cùng với tiểu đội cadet cũng góp mặt trong buổi
diễn
hành, làm cho không khí của mùa Hội Hoa Phượng Tím thật là sống động và
vui nhộn.
Đội Kèn Hơi của Thành Phố Grafton.
Dame Edna và đoàn xe lửa nhấn kèn khai mạc cuộc diễn hành
Các diễn viên tí hon của đoàn vũ ballet của Thành Phố Grafton đang ngồi trên xe hoa.
Buổi diễn hành
diễn ra gần một tiếng đồng hồ, đoàn diễn hành đi vòng quanh khu đường
chính của thành phố. Xem diễn hành xong, chúng tôi lại lái xe đi trở lại
bốn con đường chính có trồng rất nhiều hoa Phượng Tím, đó là những con
đường Pound, Tuff, Maria và Princess. . . để tiếp tục ngắm hoa.
Có thể nói là
Jacaranda được trồng ở khắp mọi nơi, mọi chốn của thành phố Grafton:
Trước cửa Tòa Thị Sảnh, Nhà Thờ, Trạm Cảnh Sát, Bệnh Viện . . . chỗ nào
cũng toàn là Phượng Tím.
Chúng tôi ngắm
hoa Phượng không chán mắt, càng ngắm càng thấy đẹp. Tuỳ theo ánh nắng,
mỗi giờ hoa phượng lại có một mầu tím khác nhau, từ tím rực rỡ tới tím
hoa sim, tím Huế, tím mùa thu và tím . . . ngắt.
Nhà Thờ Christ Church Cathedral được khánh thành vào ngày 25-07-18874, một trong những địa điểu thu hút du khách của Grafton.
Đi bộ dưới
những tàn cây, vừa ngắm hoa, vừa ngửi hương thơm của Phượng Tím. Mùi
thơm này giống như mùi thơm của hoa Lavender nhưng nhẹ nhàng hơn, làm
cho bạn cảm thấy dễ chịu và khoan khoái trong người (tôi có hỏi chuyện
một dân địa phương, ông ta đã quen với hương thơm của hoa, nên . . .
không còn ngửi thấy mùi thơm này nữa. Nhưng khi ông ta đi du lịch ra
khỏi vùng đang ở thì mới cảm thấy . . . thiếu cái mùi hương đặc biệt của
Hoa Phượng Tím).
Tôi thích nhất
là đi dưới tàn cây Phượng Tím vào buổi sáng sớm dưới bầu không khí thật
là trong lành, nhưng mầu tím của hoa lại chưa nổi bật lên. Vợ tôi thì
lại thích đi dạo duới tàng cây hoa Phượng Tím vào buổi sáng xế trưa,
khoảng từ 10 giờ tới 11 giờ, vì lúc đó, nắng chiếu vào hoa, làm nổi bật
mầu Tím của Hoa Phượng mà không có một loài hoa nào có thể có cái mầu
sắc Tím đặc biệt này.
Vợ tôi đi vòng vòng ngắm hoa, lúc nào mỏi chân thì đứng lại ngắm hoa, hết đứng rồi lại ngồi xuống ghế gỗ mà ngắm hoa tím:
"Hoa Phượng
Tìm đẹp quá . . . Chân Trời tím đẹp quá . . . cứ như là ở trong mơ ấy
thôi . . . Em cứ muốn ở đây ngắm hoa mãi . . . không muốn về nữa . . ."
Tôi đã thực hiện lời hứa của tôi, đã tìm ra Chân Trời Tím và đưa vợ tôi tới thăm Chân Trời Tím.
Các bạn của tôi ơi, bạn có hứa đưa ai về nơi . . . Chân Trời Tím hay không?
Nếu có, thì tôi đã ghi địa danh và địa chỉ của vùng Grafton cho bạn rồi đó,
Hãy đưa người yêu, người tình, người vợ thân mến của mình đi thăm Chân Trời Tím đi nhé.
Chúc bạn có một mùa Hoa Phượng Tím tuyệt vời, một mùa holiday vui vẻ.
Anh hứa đưa em về nơi chân trời tím.
Nghe gió êm qua trái tim từng hoàng hôn
Anh chỉ muốn duyên tình hai chúng ta
Như ánh sao cao vút cao xa trần gian.
(Trần Thiện Thanh.)
Nghe gió êm qua trái tim từng hoàng hôn
Anh chỉ muốn duyên tình hai chúng ta
Như ánh sao cao vút cao xa trần gian.
(Trần Thiện Thanh.)
Sưu Tầm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét